Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Cặp Sách 6 Dàn Ý &Amp; 18 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8 # Top 10 Xem Nhiều | Ltzm.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Cặp Sách 6 Dàn Ý &Amp; 18 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8 # Top 10 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Cặp Sách 6 Dàn Ý &Amp; 18 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8 được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Ltzm.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dàn ý thuyết minh về chiếc cặp sách (6 mẫu)

Thuyết minh về chiếc cặp sách của em

Thuyết minh về chiếc cặp sách ngắn gọn (6 mẫu)

Thuyết minh về chiếc cặp sách đầy đủ (10 mẫu)

Thuyết minh chiếc cặp sách học sinh

I. MỞ BÀI

Dẫn dắt và giới thiệu đến đối tượng mà đề bài yêu cầu: Chiếc cặp sách.

Những ngày tháng đến trường, tôi có sách vở làm bạn, có những vật dụng thân thương gắn bó. Bên cạnh ấy, có một người bạn thân thiết mỗi ngày đều giúp tôi mang theo sách vở, đó chính là chiếc cặp sách.

II. THÂN BÀI

Nguồn gốc, xuất xứ

Nếu nói chính xác chiếc cặp có từ bao giờ thì nó đã có xa xưa, từ rất lâu rồi. Nhưng khi ấy, con người ta làm cặp rất đơn giản, chỉ là một tấm vải lớn, để sách bên trọng mà buộc lại hai đầu đối diện nhau rồi đeo lên một bên vai. Hay sau này cặp sách là dạng hình hộp chữ nhật dọc, làm từ gỗ, tre nứa đan vào… Các sĩ tử đi thi thời xưa hay dùng những chiếc cặp sách đặc biệt như thế đấy.

Còn nếu nói đến chiếc cặp có hình dáng gần nhất so với những chiếc cặp thời nay thì chính là vào năm 1988. Chiếc cặp đầu tiên mang phong cách cổ điển đã ra đời vào thời gian này tại nước Mĩ. Từ đó, loại cặp này được sản xuất với số lượng lớn, sử dụng rộng rãi tại Mĩ và rồi lan rộng ra cả thế giới.

Đặc điểm

Hình dáng: Các loại cặp hiện nay chúng ta dùng thường có hình chữ nhật, hình thang cân hoặc là một nửa hình tròn ghép lại với một hình chữ nhật và hình vuông. → Có thể nói, hiện nay hình dáng của cặp sách khá đa dạng, để người đọc tự do chọn lựa.

Kích thước: Tuỳ theo mong muốn của người dùng mà cũng có nhiều kích thước khác nhau sao cho phù hợp.

Màu sắc: Thường có màu đen đối với cặp của học sinh cấp 2 đổ lên. Với cặp của học sinh tiểu học thì sẽ có màu sắc đa dạng hơn.

Chất liệu: Chủ yếu là được làm từ vải nilon hoặc cotton nên rất bền chắc. Có một số loại cặp được làm từ da thú, vải mềm hay polime dẻo… đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng.

Cấu tạo

Khung cặp: Đa số hiện nay, các loại cặp đều có khung cố định, chỉ trừ balo mà thôi. Thường thì khung cặp là yếu tố hình thành nên hình dáng của cặp. Khung hình chữ nhật thì cặp sẽ có hình chữ nhật, khung hình thang thì cặp sẽ có khung hình thang…

Quai cặp: Có 2 loại, gồm quai cặp để xách và quai để đeo. Quai cặp để đeo thường khá dài, dày và bên trong có bông để khi đeo lên vai không bị đau, ở phía sau cặp. Hai quai sẽ đối xứng với nhau ở hai bên. Ngoài ra, ta còn có thể chỉnh độ dài của quai đeo sao cho vừa với người. Còn quai để xách thì thường ở ngay phía trên cặp, được bọc bằng da mềm. Hiện nay, cặp sách đều đồng thời có 2 loại quai để người dùng linh hoạt sử dụng.

Khoá cặp: Thường được làm bằng nhựa, kim loại và ở phần ngoài cặp. Một số cặp như cặp tài liệu thì sẽ là khoá có số để có thể bảo mật.

Mặt trước, mặt sau: Tuỳ theo loại cặp mà mặt trước mặt sau sẽ có màu sắc, hình ảnh khác nhau. Cặp của học sinh tiểu học thường có màu sáng, mặt trước sẽ có những hình đáng yêu ngộ nghĩnh, của con trai là siêu nhân, con gái là công chúa… Còn cặp khác thì mặt trước sẽ có logo nhà sản xuất, mặt sau thường không có gì cả…

Ngăn cặp: Thường thì sẽ có từ 2 đến 6 ngăn to nhỏ khác nhau tuỳ theo loại cặp ra sao. Sẽ luôn có một ngăn lớn nhất để đựng sách, ngoài ra còn có các ngăn nhỏ hơn để đựng hộp bút hay quyển lịch, bùa bình an, khe để bút… Các ngăn cặp được đóng mở lại bởi dây kéo hoặc là khoá.

Phân loại

Cặp sách cấp 1: Đây là kiểu cặp sách hình chữ nhật, có khá nhiều màu sắc khác nhau, được trang trí đáng yêu và ngộ nghĩnh. Kiểu cặp này thường có quai đeo ở hai vai giúp học sinh đeo lên để không phải xách nặng. Một số cặp còn thiết kế thêm tay kéo với bánh xe, trông vô cùng thời thượng.

Cặp sách cấp 2, cấp 3: Loại cặp này được thiết kế chủ yếu là màu đen, có tay cầm và dây cặp đeo chéo người. Cặp có nhiều ngăn để có thể để được nhiều đồ sao cho gọn gàng ngăn nắp.

Balo: Loại cặp này không có khung, đa phần làm từ vải mềm, chỉ có 1 ngăn lớn duy nhất để sách cùng 1 ngăn bé để những vật dụng khác. Ngoài việc dùng để đựng sách, có thể đựng quần áo cùng rất nhiều thứ khác.

Cặp táp: Loại cặp này thường được dùng cho người lớn, để đựng tài liệu, đặc biệt là người làm công sở, văn phòng. Loại cặp này nhỏ gọn, dễ mang, lại có thêm ổ khoá số bảo mật nên được ưa dùng.

Công dụng

Trước hết, đây là đồ dùng để ta đựng sách vở, hộp bút, dụng cụ học tập và nhiều thứ khác mỗi khi đến trường. Nhờ vậy mà ta có thể mang được nhiều thứ thật dễ dàng. Nhiều loại cặp hiện nay có tác dụng chống nước giúp ta đi mưa mà không lo bị ướt sách bên trong.

Không chỉ vậy, cặp sách còn góp phần tăng thêm vẻ đẹp cho người dùng nhờ những kiểu mã, cách đeo của nó. Học sinh cấp 1 thêm phần nhí nhảnh đáng yêu khi đeo những chiếc cặp quai đầy sắc màu và hình ảnh vui nhộn. Sinh viên đại học trông thật năng động trẻ trung và tri thức khi đeo những chiếc balo tối màu…

Cách sử dụng và bảo vệ

Cách sử dụng: Cách dùng vô cùng đơn giản, chỉ cần đeo quai cặp lên vai là được. Hay chúng ta có thể đổi thành cầm cặp nhờ phần quai phía trên để cho đỡ mỏi vai. Các chuyên gia cho rằng chúng ta không nên đeo cặp có trọng lượng vượt quá 15% trọng lượng của cơ thể, đồng thời, những đồ nặng nên xếp sâu vào phía trong, tức phần gần sát lưng nhất. Đồ dùng, sách vở nên xếp sao cho cân đối, gọn gàng…

Các bảo quản: Thường xuyên vệ sinh cặp sạch sẽ, không nên ném cặp hay vì tò mò, nghịch ngợm mà phá cặp ra…

III. KẾT BÀI

Nêu tình cảm và suy nghĩ của bản thân đối với chiếc cặp sách.

Ví dụ: Chiếc cặp sách – người bạn thân thương đã đồng hành cùng ta suốt những năm tháng đến trường, giúp ta mang bao sách vở tri thức mỗi ngày. Mỗi người nên bảo vệ và giữ gìn cặp cẩn thận để nó được bền lâu.

1. Mở bài

Giới thiệu chiếc cặp sách: một trong những vật dụng quan trọng không thể thiếu, gắn bó với nhiều tầng lớp, thế hệ con người chính là chiếc cặp sách.

2. Thân bài

a. Khái quát chung

Lịch sử hình thành: Vào năm 1988, nước Mỹ lần đầu tiên sản xuất ra chiếc cặp sách mang phong cách cổ điển. Từ sau 1988, cặp sách đã được sử dụng phổ biến nhiều nơi ở Mỹ và sau đó lan rộng ra khắp thế giới.

b. Phân loại

Dựa vào hình dáng: balo, cặp đeo chéo, cặp khoác sau lưng, cặp cầm tay,…

Dựa vào công dụng: cặp đựng sách vở, cặp đựng tài liệu, cặp đựng đồ dùng,…

Với mỗi loại, chiếc cặp lại có hình dáng và kích cỡ khác nhau.

c. Thuyết minh chi tiết

Cấu tạo: gồm phần bên ngoài và bên trong.

Bên ngoài cặp được trang trí những họa tiết khác nhau bắt mắt phù hợp với nhiều loại đối tượng.

Bên trong: được chia thành nhiều ngăn, có thể có khóa kéo hoặc không, mỗi ngăn có kích cỡ to nhỏ khác nhau để người sử dụng dễ dàng phân chia vật dụng vào các ngăn.

Chất liệu: bằng da, vải hoặc nhựa dẻo,…

d. Sử dụng và bảo quản

Sử dụng: tùy vào tần suất sử dụng mà tuổi thọ của những chiếc cặp khác nhau. Nếu thường xuyên sử dụng và không biết giữ gìn thì cặp sẽ nhanh bị hỏng. Thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng hoặc nước mưa cũng là nguyên nhân khiến cặp nhanh bị hư hại.

Bảo quản: thường xuyên làm vệ sinh cặp (giặt ướt hoặc giặt khô tùy vào chất liệu cặp); giữ cho cặp tránh va đập mạnh, hạn chế tiếp xúc nắng mưa; không bỏ quá nhiều đồ vào cặp để tránh cặp nhanh bị giãn hoặc nặng quá,…

3. Kết bài

Khái quát lại những vai trò của chiếc cặp.

I. Mở bài

Giới thiệu chiếc cặp sách là người bạn đồng hành lâu dài với lứa tuổi học trò trong suốt thời gian cắp sách đến trường.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc, xuất xứ:

Xuất xứ: Vào năm 1988, nước Mỹ lần đầu tiên sản xuất ra chiếc cặp sách mang phong cách cổ điển.

Từ sau 1988, cặp sách đã được sử dụng phổ biến nhiều nơi ở Mỹ và sau đó lan rộng ra khắp thế giới.

2. Cấu tạo:

– Chiếc cặp có cấu tạo rất đơn giản.

Phía ngoài: Chỉ có mặt cặp, quai xách, nắp mở, một số cặp có quai đeo,.

Bên trong: Có nhiều ngăn để đựng sách vở, bút viết, một số cặp còn có ngăn để đựng áo mưa hoặc chai nước,.

3. Quy trình làm ra chiếc cặp:

Có nhiều loại cặp sách khác nhau như: Cặp táp, cặp da, balo. Với nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như: Của Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc: Tian Ling, Ling Hao, mang những phong cách thiết kế riêng biệt. Tuy nhiên cách làm chúng đều có phần giống nhau.

Lựa chọn chất liệu: Vải nỉ, vải bố, da cá sấu, vải da,.

Xử lý: Tái chế lại chất liệu để sử dụng được lâu dài, bớt mùi nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng của chất liệu đó.

Khâu may: Thông thường các xí nghiệp sử dụng máy may để may từng phần của chiếc cặp lại với nhau theo thiết kế.

Ghép nối: Ghép các phần đã được may thành một chiếc cặp hoàn chỉnh rồi được tung ra thị trường với những giá cả khác nhau.

4. Cách sử dụng:

– Tùy theo từng đối tượng mà con người có những cách sử dụng cặp khác nhau:

+ Học sinh nữ: Dùng tay xách cặp hoặc ôm cặp vào người.

+ Học sinh nam: Đeo chéo sang một bên

+ Học sinh tiểu học: Đeo sau lưng để dễ chạy nhảy, chơi đùa cùng đám bạn.

Các nhà doanh nhân: Sử dụng các loại cặp đắt tiền thường thì họ xách trên tay.

– Nhìn chung, khi mang cặp cần lưu ý không nên mang cặp quá nặng, thường xuyên thay đổi tay xách và vai đeo.

5. Cách bảo quản:

– Học sinh chúng ta thường khi đi học về thì quăng cặp lên trên cặp một cách vô lương tâm khiến cặp dễ bị rách hay hư hao. Nên bảo quản cặp bằng những phương pháp sau đây để giữ cho cặp bền tốt và sử dụng được lâu:

Thường xuyên lau chùi hoặc giặt cặp để giữ độ mới của cặp.

Không quăng cặp hay mạnh tay để tránh làm rách cặp hay hư hao.

Cứ khoảng 1 – 2 lần mỗi năm, hãy làm mới cặp bằng xi đánh giày không màu.

Để sửa chữa cặp khi bị rách, đừng nên mang đến hàng sửa giày hay giặt khô vì như vậy sẽ có nguy cơ bị hỏng do dùng sai công cụ. Hãy đưa đến thợ sửa cặp chuyên nghiệp.

Đừng bao giờ cất cặp da trong túi nilon, nó có thể làm khô túi hoặc bị chất dẻo dính vào da.

Đặt cặp trong túi nỉ của cửa hàng hoặc vỏ gối để giữ khả năng đứng thăng bằng của cặp.

6. Công dụng:

Cặp là vật để chúng ta đựng sách vở, bút viết mỗi khi đến trường.

Cặp cũng là vật để che nắng, che mưa cho sách vở. Một số bạn cũng sử dụng cặp để che mưa cho chính bản thân.

Cặp cũng là vật đã để lại không biết bao nhiêu kỷ niệm vui, buồn, đồng thời cũng tô lên nét đẹp của tuổi học trò – cái tuổi đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.

III. Kết bài

Cùng với những vật dụng tiện lợi khác, chiếc cặp sách đã trở thành một người bạn trung thành và luôn đồng hành với mỗi con người, đặc biệt là đối với những học sinh – chủ nhân tương lai của đất nước Việt Nam.

I. Mở bài

Cái cặp sách gắn bó với nhiều thế hệ học sinh từ tiểu học lên đến phổ thông trung học.

Đồ dùng học tập không thể thiếu với lứa tuổi học sinh.

II. Thân bài

a) Nguồn gốc

Ra đời vào năm 1988, nước Mỹ là nơi sử dụng chiếc cặp sách đầu tiên.

Từ sau đó, chiếc cặp sách được nhiều nơi sử dụng và phổ biến tại những nước lớn.

b) Cấu tạo chiếc cặp sách

Mặt ngoài gồm có quai xách, nắp mở, quai đeo, tùy theo cấp cấu tạo khác nhau.

Mặt trong gồm các ngăn đựng sách vở, dụng cụ, đồ dùng học tập.

c) Quy trình tạo ra cặp sách

Chất liệu làm nên cặp sách, có nhiều loại như bằng vải nỉ, vải da.

Công đoạn xử lý: qua các công đoạn xử lý, các loại vải giảm đi mùi hôi, bền, chắc hơn.

Công đoạn khâu may: mỗi phần trên chiếc cặp sẽ có một bộ phận thực hiện, sau khi khâu máy sẽ đến công đoạn ghép lại.

Ghép cặp: các phần khâu may sẽ được ghép lại thành chiếc cắp như thiết kế ban đầu.

d) Hướng dẫn sử dụng

Theo lứa tuổi:

Với các em mầm non, tiểu học thường mang sau lưng tiện lợi, gọn nhẹ.

Các bạn lớn tuổi hơn thường mang cặp sách chéo một bên.

Theo giới tính:

Các bạn nam thường có sở thích mang cặp chéo một bên thời trang, lịch sự.

Các bạn nữ chủ yếu xách cặp bằng tay.

e) Công dụng

Đồ dùng học tập quen thuộc chứa sách vở và các đồ dùng khi đến trường.

Chiếc cặp sách che nắng che mưa cho các dụng cụ học tập bên trong.

Ai trong thời học sinh cũng có những chiếc cặp sách thân thương và đầy kỉ niệm tuổi học trò.

f) Bảo quản

Đồ dùng học tập bảo quản tốt sẽ sử dụng bền lâu theo thời gian.

Không để cặp va đập mạnh gây rách.

Lau chùi sau khi sử dụng để cặp sách luôn mới và sử dụng lâu dài.

III. Kết bài

1. Mở bài

Giới thiệu về chiếc cặp sách

2. Thân bài

* Lịch sử ra đời:

Cặp sách được sản xuất và đưa vào sử dụng lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1988

Ngày nay cặp sách được sử dụng vô cùng phổ biến, đáp ứng nhu cầu sử dụng của nhiều đối tượng, đặc biệt là học sinh.

* Cấu tạo của chiếc cặp sách:

Bên ngoài: mặt cặp sách, quai đeo, dây đeo cặp, khóa mở cặp.

Bên trong: Các ngăn cặp

* Phân loại: Có nhiều loại khác nhau tùy vào đối tượng và mục đích sử dụng:

Ba lô

Túi xách

Cặp táp

* Một số lưu ý khi sử dụng:

Không nên xách cặp quá nặng để tránh mỏi tay và hư hỏng cặp sách vì quá tải

Không quăng hay ném cặp lung tung mà nên để cặp gọn gàng vào một góc bàn học hoặc bàn làm việc cho sạch sẽ

Định kỳ lau chùi và giặt cặp thật cẩn thận để giữ gìn cho cặp luôn sạch đẹp

* Vai trò của chiếc cặp:

Đựng đồ dùng học tập cho học sinh đến trường

Đựng giấy tờ, tài liệu

3. Kết bài

Khẳng định vai trò, giá trị của chiếc cặp

1. Mở bài:

Trong số những đồ dùng học tập của học sinh thì cái cặp là vật dụng gần gũi thân thương nhất.

2. Thân bài

1) Cái cặp thường có hình chữ nhật chiều dài là 40cm, chiều cao 30cm, độ rộng 15cm. Cặp táp của học sinh được làm bằng nhiều loại chất liệu khác nhau: vải bố, da, nhựa hoặc nhựa tổng hợp.

2) Cái cặp có ba phần: phần quai, phần nắp và phần thân cặp.

a. Phần quai cặp gồm 2 quai: quai xách tay nhỏ và vai đeo chéo ngực thì dài hơn, trên quai đeo dài có một móc sắt giúp thu ngắn hoặc làm cho quai dài ra.

b. Phần nắp cặp được may liền với thân sau của cặp, nắp cặp phủ qua thân trước của cặp, ở nắp cặp có hai chốt khóa bằng sắt hoặc bằng nhựa để đóng cặp lại. Trên nắp cặp người ta có thể trang trí hình vẽ hoa văn hay những con thú dễ thương.

c. Phần thân cặp có rất nhiều ngăn, thường có 3 hoặc 4 ngăn lớn và những ngăn nhỏ. Các ngăn lớn dùng để đựng tập và sách giáo khoa, các ngăn nhỏ để đựng khăn giấy, đựng bút, máy tính.

Dưới cùng của thân cặp cũng có 2 móc khóa khớp với móc khóa ở nắp cặp. Khi đóng móc khóa ta nghe một tiếng “cách cách” thật vui tai.

3) Cặp táp giúp ích rất nhiều cho người học sinh, hàng ngày cặp theo chân người trò nhỏ đến trường, giúp người học sinh đựng bao nhiêu đồ đạc cần mang theo khi đi học. Thử tưởng tượng nếu không có cặp táp thì sẽ bất tiện vô cùng. Nhờ có cặp mà người học sinh không bị ướt tập vở khi trời mưa.

4) Vì những lợi ích mà cặp đem lại cho người học sinh, nên chúng ta cần bảo quản cặp cẩn thận để sử dụng nó được lâu dài. Không quăng vất cặp bừa bãi, không lót cặp làm ghế ngồi, Thỉnh thoảng giặt cặp sạch sẽ để nó luôn được mới. Khi đi mưa phải dùng bao ni lông che cặp lại, không để cho cặp bị ẩm và cũng không nên bỏ thức ăn vào cặp sẽ dẫn đàn kiến đến cắn lủng cặp.

3. Kết bài

Có những bạn học sinh khi đi học thì dùng túi xách, ba lô nhưng rõ ràng những vật này không tiện dụng bằng cặp. Cặp táp là một vật dụng quan trọng của đời người.

Quãng đời học sinh là quãng thời gian vô cùng tươi đẹp. Đồng hành cùng tuổi học trò là những người bạn thân quen như sách vở, bút, thước,… Và còn một người bạn không thể thiếu nữa đó chính là cặp sách. Không một học sinh nào đến trường mà có thể thiếu được chiếc cặp sách của mình.

Chiếc cặp sách đầu tiên được ra đời tại nước Mỹ vào năm 1988. Gần như ngay lập tức, chiếc cặp sách đã trở thành vật dụng quen thuộc với người học sinh. Nó không chỉ phổ biến ở Mỹ mà còn lan rộng trên toàn thế giới và được hàng triệu học sinh yêu mến.

Cấu tạo của chiếc cặp sách không hề phức tạp mà ngược lại nó đơn giản nhưng rất đẹp. Ngoài cùng của cặp sách là mặt cặp, có nắp mở, phía trên có quai xách còn phía sau có quai đeo vào lưng. Ở bên trong của cặp người ta chia nó ra thành nhiều ngăn to nhỏ để đựng những món đồ dùng học tập khác như sách vở, bút thước. Sau này, thiết kế của cặp sách có nhiều cải tiến hơn với nhiều mẫu mã khác nhau. Có cặp sách còn được thiết kế thêm ngăn đựng áo mưa, ngăn đựng chai nước.

Tuy đơn giản nhưng việc làm ra một chiếc cặp sách lại khá kì công và đòi hỏi phải có sự chỉn chu trong từng khâu. Các khâu để làm nên một chiếc cặp sách là lựa chọn chất liệu, xử lí chất liệu, khâu may và ghép nối. Trong các khâu này, khâu lựa chọn chất liệu là vô cùng quan trọng. Có nhiều chất liệu có thể sử dụng để làm nên cặp sách như vải, nhựa, da,… Chính điều này đã làm nên sự đa dạng cho cặp sách. Tùy vào sở thích mà mỗi người học sinh sẽ còn cho mình những chiếc cặp sách có chất liệu khác nhau. Dẫu vậy, dù làm bằng chất liệu gì thì yêu cầu đầu tiên đối với một chiếc cặp sách đó là phải chắc chắn. Việc xử lí chất liệu cũng quan trọng để loại bỏ được mùi của chất liệu. Các phần của chiếc cặp thường được ghép lại với nhau bởi máy may cho đến khi tạo ra một chiếc cặp hoàn chỉnh. Hiện tại chiếc cặp sách có nhiều phiên bản khác nhau như ba lô, cặp da, cặp táp. Kích thước của cặp cũng có sự khác nhau để phù hợp với từng lứa tuổi học sinh. Tùy vào từng loại mà giá thành của chúng cũng khác nhau.

Tuổi thọ của một chiếc cặp sách tùy thuộc vào chất lượng của nó cũng như người sử dụng. Nếu giữ gìn và bảo quản tốt thì cặp sách có thể dùng được rất lâu. Muốn vậy, khi dùng cặp sách không nên quăng quật hay ném mạnh. Cũng không nên để cặp sách bị dính nước khi trời mưa. Nơi để cặp cần đủ rộng chứ không nên để ở những nơi quá chật hẹp có thể làm cặp bị chèn ép và biến dạng. Cặp tuy rộng nhưng cũng không nên đựng quá nhiều đồ sẽ làm sức chịu đựng của cặp bị quá tải. Đeo cặp quá nặng cũng không tốt cho người học sinh.

Trong quá trình học tập của người học sinh, chiếc cặp là một vật dụng không thể thiếu. Cho dù nhiều năm sau nữa, chiếc cặp sách vẫn sẽ là người bạn đồng hành của học sinh. Mỗi chúng ta hãy yêu thương và trân trọng chiếc cặp sách của chính mình.

Thuở học sinh ai cũng gắn bó với những đồ dùng học tập quen thuộc trong đó cặp sách như người anh cả to lớn và che chở cho những đồ dùng học tập. Chiếc cặp sách gắn bó thân thiết dù lúc này hay mưa.

Cặp sách dùng để chứa đồ vật và mang trên vai để di chuyển, đây là phát minh hữu ích của con người vào năm 1988, từ đó đến nay chiếc cặp sách đã được dùng phổ biến trên toàn thế giới.

Chiếc cặp có cấu tạo rất đơn giản bao gồm bên trong và bên ngoài, với bên ngoài có các bộ phận như bề mặt cặp, quai xách, nắp mở. Còn với bên trong sẽ có nhiều ngăn, độ rộng khác nhau dùng để chứa sách vở, bút, thước, rộng hơn là dùng để chứa áo đi mưa, nước uống.

Mặc dù có nhiều mẫu mã đa dạng những quy trình làm ra chiếc cặp sách đều giống nhau cần sự tỉ mỉ, chính xác. Trước tiên cần chọn chất liệu: vải bố, vải cá sấu, vải da, vải càng tốt giá tiền cặp sách sẽ càng cao. Sau khi chọn vải sẽ đến công đoạn tái chế lại chất liệu để sử dụng bền lâu. Khâu may công đoạn giúp những chiếc cặp bền chắc hơn và thông thường thực hiện bằng máy may. Cuối cùng là công đoạn ghép nối giúp nối những chiếc cặp hoàn chỉnh.

Chiếc cặp sách trên thị trường có sự đa dạng về màu sắc và kiểu dáng, có những cặp sách dành riêng cho nam và nữ. Nam thì cặp đeo chéo, nữ lại nhỏ gọn để các bạn dễ dàng di chuyển hơn.Cặp hai quai dành cho các học sinh tiểu học, khi sử dụng cần đeo hai vai để tránh cong vẹo cột sống. Riêng với các doanh nhân cặp sẽ nhỏ gọn và đắt tiền hơn phù hợp với công việc và môi trường.

Để cặp sách bền lâu khi sử dụng cần chú ý không để cặp nơi có nguồn nhiệt cao dễ bị biến dạng. Thường xuyên lau chùi bụi bẩn và nước. Nếu cặp bị bẩn phải giặt bằng tay và phơi ở những nơi có ánh sáng yếu. Một chiếc cặp sách nếu biết cách bảo quản có thể sử dụng từ 3-5 năm.

Chiếc cặp sách là đồ dùng học tập quen thuộc với học sinh giúp che nắng mưa và đồng hành với chúng ta đến trường. Hãy yêu cặp sách như một người bạn và chính nó sẽ giúp bạn đi đến tương lai tươi sáng hơn.

Suốt quãng đời đi học, người học sinh luôn có rất nhiều người bạn đồng hành như sách, vở, bút, thước. Đó là những người bạn tuy nhỏ bé nhưng lại không thể vắng mặt. Trong số những dụng cụ học tập thì chiếc cặp cũng là một vật dụng vô cùng gần gũi, gắn bó với người học sinh trong những năm tháng cắp sách đến trường.

Cặp sách chắc chắn là một trong những phát minh hữu ích nhất của loài người. Nước Mỹ là nước đầu tiên sản xuất ra chiếc cặp sách vào năm 1988. Từ đó, cặp sách đã được sử dụng phổ biến ở Mỹ và lan rộng ra toàn thế giới.

Chiếc cặp sách có cấu tạo rất đơn giản. Phía ngoài chỉ có mặt cặp, nắp mở, quai xách để cầm tay hoặc quai đeo để đeo trên lưng. Phía trong cặp được cấu tạo thành nhiều ngăn to nhỏ khác nhau để đựng sách vở, bút thước. Một số cặp còn có ngăn đựng áo mưa hoặc chai nước.

Để làm ra một chiếc cặp bao gồm những công đoạn chính như: lựa chọn chất liệu, xử lí chất liệu, khâu may, ghép nối. Chất liệu cặp cũng vô cùng phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào nhu cầu và sở thích của người dùng. Cặp có thể làm từ vải nỉ, vải bố hoặc da. Dù làm bằng chất liệu gì thì yêu cầu quan trọng nhất là cặp phải chắc chắn vì nó dùng để chứa nhiều sách vở. Khâu xử lí để tái chế lại chất liệu, bớt mùi nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng của chất liệu đó. Hiện nay, thông thường các xí nghiệp thường sử dụng máy may để may các phần của cặp lại với nhau theo thiết kế. Cuối cùng, các phần được ghép nối lại thành chiếc cặp hoàn chỉnh rồi tung ra thị trường. Các loại cặp hiện nay cũng vô cùng đa dạng với nhiều mẫu mã và giá tiền khác nhau phù hợp với người tiêu dùng. Có cặp táp, cặp da, balo. Một số thương hiệu nổi tiếng như Hồng Hà, Thủ đô vàng, cặp của Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Giá một chiếc cặp sách dao động khoảng vài trăm nghìn.

Mỗi đối tượng sẽ có cách sử dụng cặp khác nhau. Đối với học sinh nữ sẽ dùng tay xách cặp hoặc ôm cặp vào người để thể hiện sự dịu dàng, thùy mị, nữ tính. Còn học sinh nam có xu hướng đeo chéo cặp sang một bên trông rất tự tin, năng động. Học sinh tiểu học thì thường đeo cặp trên lưng để dễ chạy nhảy, chơi đùa cùng bạn bè.

Cặp sách dù tốt, dù bền như thế nào cũng sẽ hỏng nếu chúng ta không biết cách bảo quản và sử dụng. Như ông cha ta đã nói: “Của bền tại người”, để chiếc cặp sách được bền lâu, chúng ta cần thường xuyên lau chùi, vệ sinh để giữ độ mới của cặp. Không nên quăng cặp quá mạnh để tránh cặp bị rách. Khi trời mưa cần tránh để cặp không bị dính nước. Nếu để cặp ở những không gian hẹp như hộc tủ, hộc bàn sẽ gây chèn ép, làm cặp bị cong và vênh. Bên cạnh đó, một điểm cần lưu ý khác là không nên đựng khối lượng quá nặng so với sức chứa của cặp.

Một số lời khuyên để sử dụng cặp đúng cách: chiếc cặp khi đeo không nên vượt quá 15% trọng lượng cơ thể. Nên xếp những đồ vật nặng nhất ở phần tiếp giáp với lưng, sách vở và đồ dùng xếp sao cho không bị xô lệch. Để tránh bị cong vẹo người, hai quai nên được đeo một cách ngay ngắn, đối với loại cặp chỉ có một quai thì cần thay đổi vai đeo cho đỡ mỏi.

Chiếc cặp là một vật dụng rất hữu ích và cần thiết trong quá trình học tập và làm việc của con người. Hiện tại hay mai sau, chiếc cặp vẫn sẽ giữ nguyên vai trò và giá trị của nó, trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta.

Trong tất cả các dụng cụ của học sinh, chúng tôi được xem như là anh cả, bởi lẽ chúng tôi có thân hình to lớn nhất. Các bạn có biết chúng tôi là ai không? Chúng tôi là những chiếc cặp xinh xinh giúp các bạn đựng đồ dùng học tập.

Họ hàng chúng tôi có tự bao giờ không rõ lắm, nhưng chắc chắn là từ rất xa xưa, khi con người có nhu cầu đi học. Cha ông chúng tôi trước kia được làm rất đơn giản, thân hình chỉ gồm những mảng da lớn được may lại, nắp cặp có khóa sắt hoặc có dây kéo để đóng mở cặp. Còn ngày nay, với công nghệ tiên tiến và hiện đại, chúng tôi được thiết kế với nhiều kiểu mẫu đẹp hơn, đa dạng hơn. Họ hàng chúng tôi có nhiều loại: Cặp đeo, cặp mang trên vai, cặp xách. Chất liệu để làm ra chúng tôi cũng phong phú hơn xưa. Có loại làm bằng da mềm, có loại làm bằng vải dù, vải jean, vải bố. Riêng tôi, tôi có một thân hình tương đối đẹp, được làm bằng một loại vải da tốt. Bên ngoài có trang trí nhiều hình vẽ và màu sắc nổi bật. Tôi thích nhất là hình chú chó Pikachu đáng yêu ở phía trước mặt cặp.

Bên trên là nắp cặp với một cái khóa bằng sắt bóng loáng để đóng, mở. Mỗi khi đóng, mở cặp, những âm thanh vang lên lách cách rất vui tai. Bên dưới nắp cặp là một cái túi phụ có dây kéo để các cô, cậu học trò đựng các đồ vật nhỏ cần thiết. Bên hông là một cái túi lưới để đựng những chai nước mà các cô, cậu thường hay mang đến lớp. Tôi không chỉ có quai đeo mà còn có một cái quai nhỏ để xách. Bên trong quai có lót xốp nên sử dụng rất êm. Quan trọng nhất là bên trong cơ thể tôi. Nơi ấy có ba ngăn chính dùng để đựng sách vở. Ngoài ba ngàn chính tôi còn có một ngăn phụ để đựng bút, thước, compa. Mỗi ngăn cặp được ngăn bởi một miếng vải mỏng và bền.

Tuy thân hình chúng tôi cấu tạo chỉ như thế nhưng chúng tôi rất có ích. Nhờ có chúng tôi, các cô, cậu chủ cảm thấy tiện lợi hơn, thoải mái hơn khi đến trường. Chúng tôi che nắng cho sách, vở. Và chúng tôi cũng lấy làm vinh dự với chức năng bảo vệ nguồn tri thức của các cô, cậu học trò. Có chúng tôi, nguồn tri thức ấy sẽ không bị mất đi, không bị mai một đi khi trải qua mọi sự thay đổi của thời tiết.

Để chúng tôi phát huy hết vai trò của mình thì cần phải có sự bảo quản của con người. Cách bảo quản chúng tôi cũng dễ thôi: Khi đi học về, các cô, cậu chủ nhỏ treo chúng tôi lên móc, để ở nơi sạch sẽ. Khi chúng tôi bị ướt, các cô, cậu chỉ cần dùng khăn lau khô rồi phơi lên. Chúng tôi cũng cần được giặt sạch rồi phơi khô để vải không bị mục hoặc mốc. Khi có bụi bám vào, cần lau chùi cho chúng tôi sạch sẽ, nhìn vào sẽ trông đẹp hơn, mới hơn. Đặc biệt, để dây kéo hoặc ổ khóa được bền thì cần sử dụng nhẹ nhàng, cẩn thận. Nếu không cẩn thận thì các bộ phận này dễ bị hỏng.

Chúng tôi cũng không tầm thường chút nào đấy chứ! Chúng tôi là những người bạn tốt của các bạn học sinh, luôn đồng hành cùng các bạn, giúp các bạn mang theo mình nhiều tri thức để sau này trở thành những người tài đức vẹn toàn, giúp ích cho đất nước và mở ra cho mình một tương lai mới.

Kỉ niệm về chiếc cặp mà em đựng sách vở đi học luôn mãi mãi ở trong tâm trí em. Đã một năm trôi qua rồi, thế mà mỗi lần nghĩ đến em vẫn còn cảm thấy nôn nao, bồn chồn đến lạ.

Hồi ấy, em đang còn sử dụng chiếc cặp của chị Hai lúc, chị học ở tiểu học. Chiếc cặp vẫn còn sử dụng tốt, chỉ nứt một số đường may ở trong các ngăn cặp và miệng cặp. Sách vở và đồ dùng học tập thường bỏ lẫn với nhau vì chỉ còn lại có một ngăn. Nhưng không phải vì thế mà em buồn. Trái lại em rất quý và rất yêu chiếc cặp vì nó là vật kỉ niệm của chị em. Chị Hai bây giờ là sinh viên năm thứ nhất khoa Quản trị Kinh doanh rồi. Em muốn nâng niu vật kỉ niệm ấy bên mình như thầm hứa với chị Hai sẽ noi theo gương chị. Do vậy mà em không đòi hỏi bố phải mua cặp mới cho em. Nhưng rồi vào một buổi học cuối học kỳ II năm lớp Ba, tan học, mưa tầm tã, sách vở và đồ dùng học tập ngày hôm ấy lại khá nặng. Tất cả đều dồn vào cặp. Nước mưa thấm vào làm đường chỉ khâu dưới đáy cặp bị bung ra. Và thế là bao nhiêu sách vở, đồ dùng học tập rơi xuống mặt đường. Em nhặt sách vở và đồ dùng học tập lên gói chung vào tấm ni lông tất tả chạy về nhà. Thấy em ôm chồng sách vở trên tay, vai đeo chiếc cặp không, bố hỏi: “Sao con không bỏ vào cặp?”. Em vừa cởi quai đeo vừa nói với bố: “Cặp hỏng rồi bố ạ!”. Bố nhìn em, nhìn chiếc cặp đã thủng đáy, rồi quay sang âu yếm nói: “Đừng buồn nghe con! Bố bận công chuyện quá không để ý đến chiếc cặp của con. Mẹ con lại đi học xa, chắc cũng không biết chuyện này, thông cảm cho bố mẹ. Chiều nay, bố đưa con ra chợ nhà lồng thị xã, mua chiếc khác”. Thế là em đành phải từ biệt chiếc cặp, để nó lên giá sách như lưu giữ lại một vật kỉ niệm của chị mình.

Chiếc cặp mà em có trong tay bây giờ là một chiếc cặp tuyệt đẹp! Có lẽ nó đẹp thuộc loại nhất, nhì trong lớp, bởi nó vừa mới lại vừa tốt, kiểu cặp trông rất xinh và rất tiện lợi. Chất liệu chiếc cặp được may bằng vải ni lông tông hợp màu xanh lá cây. Chiều dài độ ba mươi lăm xen-ti-mét, chiều rộng chừng hai mươi lăm xen-ti-mét. Phía trên có quai xách. Đằng sau có hai quai đeo làm bằng chỉ dù to bản, vừa chắc lại vừa êm vai. Phía trước cặp có hai khóa móc láng bóng được mạ kền. Chỉ cần bấm nhẹ vào hai cái nút nhô lên như hai đầu đũa, móc bật ra là em có thể mở cặp một cách nhanh chóng, thuận tiện. Phía trong nắp cặp là một đường dây kéo tạo thành một cánh cửa đóng kín ba ngăn cặp. Nắp cặp được làm bằng một miếng mê ca mỏng và được trang trí bằng một tấm hình chụp vị thuyền trưởng Sinbad trong bộ phim “Cuộc phiêu lưu của Sinbad” làm tăng thêm vẻ đẹp của chiếc cặp.

Chiếc cặp được cấu tạo ba ngăn. Ngăn giữa rộng hơn, em dùng để toàn bộ sách vở trong buổi học. Còn hai ngăn kia dùng để đồ dùng học tập và tấm vải mưa. Thật là tiện lợi. Đã gần một năm rồi mà chiếc cặp vẫn còn y như mới mua tuần trước. Đi học về, bao giờ em cũng dùng một miếng vải mỏng lau sạch bụi bặm hoặc nước mưa rồi mới để vào góc học tập của mình.

Chiếc cặp đã trở thành người bạn thân thiết của em từ dạo đó. Và bây giờ, ngày ngày cặp lại cùng em tung tăng đến trường, rồi lại cùng em trở về nhà trong niềm vui vì những điểm mười mà em đạt được.

Tuổi học trò có biết bao vật dụng thân thiết như bút, thước, sách vở. Và một trong những vật dụng không thể thiếu đó chính là chiếc cặp sách. Với mỗi học sinh, chiếc cặp không chỉ là một dụng cụ mà là người bạn thân thiết đầy gắn bó.

Không ai biết chính xác chiếc cặp sách ra đời từ bao giờ nhưng theo dõi trên phim ảnh ta thấy từ thời Pháp thuộc học sinh trường Bưởi, nữ sinh Đồng Khánh với bộ áo dài thướt tha cùng chiếc cặp bên hông vào dòng người nổi bật trên đường.

Trải qua thời gian và sự biến đổi không ngừng của xã hội, cho đến nay chiếc cặp sách vẫn giữ nguyên hình dạng ban đầu dù mẫu mã đã có sự thay đổi. Nó có hình chữ nhật, kích cỡ đa dạng để phù hợp với nhu cầu của người sử dụng. Cặp thường có bề dày từ 15 đến 20 cm, chia thành nhiều ngăn, mỗi ngăn có một chức năng. Những ngăn to dùng để sách giáo khoa, vở viết, tài liệu tham khảo còn các ngăn nhỏ để túi kiểm tra và các dụng cụ học tập khác như bút, thước. Để sách vở và các đồ dùng không bị rơi ra ngoài, miệng các ngăn thường có khóa kéo bằng nhựa. Với loại cặp như chiếc ví thì ngoài khóa kéo còn có khóa cài làm bằng thép để không bị rỉ.

Để tiện cho việc di chuyển, cặp thường có hai loại quai: quai xách và quai đeo. Quai xách được gắn cố định vào hai mặt trước sau còn quai đeo được mắc vào hai bên hông của cặp. Quai đeo dài để có thể quàng qua vai và có một miếng đệm để khi đeo không bị đau vai, có khóa để điều chỉnh độ dài ngắn tùy ý.

Cặp có nhiều màu sắc để đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Học sinh tiểu học thường chọn những gam màu sặc sỡ: đỏ, hồng, tím, xanh…với hình vẽ các nhân vật ngộ nghĩnh trên phim hoạt hình, truyện tranh. Học sinh trung học và cán bộ giáo viên thường dùng gam màu trầm, nhã nhặn như đen, nâu.

Hằng ngày phải tải một một khối lượng khá lớn và dãi dầu nắng mưa, hơn nữa để cặp luôn vuông vức người ta thường chọn những vật liệu cứng, có độ bền cao lại không dễ dàng bị ngấm nước như da, nhựa dẻo, vải dù để làm cặp. Bên trong cặp thường có một lớp lót bằng vải hoặc nilon để tăng độ cứng, bền của cặp. Chất liệu cứng và dày như vậy nên việc may cặp khá công phu, đòi hỏi người thợ phải có tay nghề cao và sử dụng loại máy chuyên dụng. Cặp được sử dụng khá phổ biến nên có nhiều hãng sản xuất và được bày bán khắp nơi trên thị trường.

Trông nhỏ bé và giản dị nhưng chiếc cặp có vai trò vô cùng quan trọng. Đó là vật bất li thân của người học sinh. Từ khi bước vào lớp một đến khi là sinh viên trên giảng đường đại học, chiếc cặp luôn bên ta, làm người bạn thân thiết không bao giờ rời xa. Bao nhiêu sách vở, dụng cụ học tập hằng ngày chỉ cần có chiếc cặp là tất cả đều gọn gàng, ngăn nắp và tất cả đều di chuyển dễ dàng. Lặng lẽ bên ta, cặp chia sẻ với ta những niềm vui nỗi buồn, những nhọc nhằn, vất vả của tuổi học sinh.

Ông cha ta thường dạy “của bền tại người”. Chiếc cặp hữu ích như vậy nên càng phải giữ gìn để thời gian sử dụng được lâu. Mỗi khi để sách vở, dụng cụ học tập hoặc di chuyển cặp phải nhẹ nhàng. Không nên để cặp ở nơi ẩm thấp, bụi bặm, không để nhiều thứ nặng làm tổn hại đến cặp. Ở nhà có giá để cặp, đến trường để cẩn thận vào ngăn bàn. Trời nắng, trời mưa phải có dụng cụ bảo vệ, che chắn cặp.

Hiện nay, công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại thì càng có nhiều vật dụng ra đời có thể thay thế chiếc cặp nhưng ta không thể phủ nhận vai trò và vị trí của chiếc cặp sách nhất là đối với học sinh. Với giá cả phải chăng, lợi ích to lớn nó sẽ được các thế hệ học sinh, giáo viên yêu thích và sử dụng. Mỗi học sinh chúng ta hãy tâm niệm rằng giữ gìn, bảo vệ, nâng niu chiếc cặp sách là hành vi của người có văn hóa.

Bạn biết không trong thời học sinh của chúng ta muốn học tốt thì ngoài sách vở ra thì cần rất nhiều đồ dùng học tập. Và một trong những món đồ dùng học sinh có tác dụng chứa đựng tất cả các vận dụng khác thì không thể không nhắc đến chiếc cặp sách thân yêu được.

Chiếc cặp sách ra đời từ rất lâu rồi. Chiếc cặp sách ra đời để có thể đáp ứng được nhu cầu đi học của con người, bởi đi học cũng rất cần một vật dụng có thể chứa đựng tất cả những vật dụng sách vở, bút, bảng. Những chiếc cặp ngày trước được làm rất đơn giản, thân hình của chiếc cặp lúc đó cũng lại chỉ gồm những mảnh da lớn được may lại. Đặc biệt hơn chiếc nắp cặp có khóa sắt hoặc có chiếc dây kéo để đóng mở cặp đơn giản mà thôi. Còn ngược lại trong xã hội hiện đại ngày nay, khi đất nước ngày càng phát triển hơn, khi mà công nghệ tiên tiến và hiện đại thì đã cải tiến những chiếc cặp này vừa đa dạng về mẫu mã về kiểu dáng mà nó cũng lại được tối ưu hóa những công dụng phù hợp với từng người sử dụng.

Nói về chiếc cặp sách thì nó được phân biệt rất nhiều loại, và có rất nhiều mẫu mã, kiểu dáng như các chiếc cặp đeo, cặp mang trên vai, cặp xách. Và đáng chú ý ở đây đó cũng chính là chất liệu để làm ra chúng tôi cũng phong phú hơn xưa tha hồ cho người tiêu dùng có thể chọn lựa. Những chiếc cặp được bày bán có loại làm bằng da mềm, có loại làm bằng vải dù có bao chiếc cặp sách lại làm bằng vải jean, vải bố. Chiếc cặp sách có rất nhiều màu sắc đẹp đẽ nữa, có chiếc thì bên ngoài có trang trí nhiều hình vẽ và màu sắc nổi bật khác nhau. Các hình in đó có thể là hình những cô công chúa, những nhân vật hoạt hình, trang phong cảnh đáng yêu. Những bạn học sinh tiểu học và trung học luôn luôn chọn các mẫu cặp đáng yêu này, nhưng với các bạn học sinh cuối cấp lại ưa chọn kiểu dáng cặp thiêng về độ thuận tiện hơn là về mẫu mã.

Chiếc cặp sách ở bên trên là nắp cặp với một cái khóa bằng sắt bóng loáng để đóng, mở thật chắc chắn. Ngoài ra lại có các kiểu cặp được sử dụng khóa là chủ yếu. Chiếc cặp sách có rất nhiều ngăn khác nhau, loại bình thường nhất là có hai ngăn chính và ở phía hai bên hông cặp lại có thêm một ngăn lưới để có thể đựng những chai nước hay giẻ lau, thuận tiện nhất cho người đi học. Những ngăn chính trong chiếc cặp thì giúp cho học sinh có thể đựng sách vở và hộp bút ở đây. Nếu chọn những chiếc cặp có hình hộp học sinh đựng sách vở sẽ không bị quăn mép.

Chiếc cặp thực sự cũng rất có ích cho mỗi người học sinh. Thế rồi nhờ có chiếc cặp này mà học sinh có thể sắp xếp thật khoa học sách vở của mình. Không những thế còn là một cách như để bảo vệ sách vở và đồ dùng chứa bên trong. Khi trời nắng hay mưa nhỏ thì cũng không hề lo lắng sách vở bên trong bị hư hỏng.

Chiếc cặp sách cũng chính là những người bạn tốt của các bạn học sinh, luôn đồng hành cùng các bạn học sinh. Chiếc cặp sách cũng đã giúp các bạn mang theo mình nhiều tri thức để sau này trở thành những người tài đức vẹn toàn và có thể giúp ích cho đất nước.

Suốt quãng đời cắp sách tới trường, người học sinh luôn bầu bạn với sách, vở, bút, thước, và coi đó là những vật dụng không thể thiếu được. Trong số những dụng cụ học tập ấy thì vật dụng để đựng các thứ kể trên chính là chiếc cặp – một vật đã gắn bó với tôi nhiều năm và chắc trong tương lai sẽ còn hữu ích với tôi lắm!

Cặp sách được sử dụng nhiều trong quá trình học tập cũng như trong đời sống. Chắc chắn một điều rằng, cặp sách có thể được đưa vào danh sách hàng loạt những phát minh quan trọng của loài người. Việc phát minh ra cặp sách là do người Mỹ nghĩ ra vào năm 1988.

Về cấu tạo, bên ngoài, ta dễ thấy nhất: nắp cặp, quai xách, kẹp nắp cặp, một số cặp có quai đeo, một số khác có bánh xe nhỏ được dùng để kéo trên đường. Cấu tạo bên trong, có thể có một hoặc nhiều ngăn dùng để đựng tập sách, đồ dùng học tập, áo mưa, có thể có ngăn đựng ví tiền hay cả đồ ăn, nước uống nữa.

Về quy trình, cho dù quy trình làm ra chiếc cặp như thế nào đi nữa thì nó cũng chỉ có những công đoạn chính gồm: lựa chọn chất liệu, xử lý, khâu may, ráp nối. Chất liệu thì có rất nhiều loại cho phù hợp với yêu cầu của người dùng: vải nỉ, vải bố, da cá sấu, giả da. Dù làm bằng chất liệu gì thì cặp cũng phải chắc, vì nó phải khiêng vác rất nặng các tập sách. Kèm theo đó, kiểu dáng cặp cũng phải phù hợp, ví dụ như con trai thì thường đeo cặp có quai sang một bên cho có khí phách, năng động. Con gái mặc áo dài thì ôm cặp trước ngực để có vẻ dịu dàng, thùy mị. Con nít thì đeo cặp ra sau lưng để dễ dàng chạy nhảy, vui đùa. Cùng với màu sắc, hiện đang thịnh hành rất nhiều loại cặp với nhiều màu sắc, hình ảnh đa dạng, phong phú, bắt mắt phù hợp cho từng lứa tuổi.

Một số lời khuyên về việc sử dụng cặp cho đúng cách: chiếc cặp khi đeo không nên vượt quá 15% trọng lượng cơ thể của mình. Nên xếp những đồ vật nặng nhất vào phần trong của cặp (phần tiếp giáp với lưng). Xếp sách vở và đồ dùng học tập sao cho chúng không bị xô lệch. Chắc chắn rằng những vật dụng để trong cặp đều cần thiết cho các hoạt động trong ngày. Đối với cặp hai quai, chúng ta không nên đeo lủng lẳng một quai, dễ cong vẹo người. Đối với cặp chỉ có một quai, nên thay đổi vai đeo để tránh cong vẹo người. Khi mua cặp, nên chọn loại quai đeo có độn bông, mút hoặc vải.

Ngày nay, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như Miti, Samsonite, Tian Ling, Ling Hao, phổ biến ở khắp mọi nơi như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Nhưng cho dù chúng đẹp đến đâu, bền cỡ nào đi chăng nữa, cũng từ từ theo thời gian mà hỏng dần đi nếu như chúng ta không biết cách bảo quản nó, chẳng hạn như quăng chúng ình ình mỗi khi gặp chuyện bực mình hoặc ham vui mà quăng nó đi. Thế nên, chúng ta không nên quăng cặp bừa bãi, mạnh tay, thường xuyên lau chùi cặp cho sạch sẽ.

Nói tóm lại, cặp sách là một vật dụng rất cần thiết trong việc học tập và cả trong đời sống của chúng ta. Nếu chúng ta sử dụng đúng cách, nó sẽ mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích và có thể được coi là người bạn luôn luôn đồng hành với mỗi chúng ta. Đặc biệt là đối với học sinh- chủ nhân tương lai của đất nước.

Trong suốt thời gian đi học bạn gắn bó với thứ gì nhất? Có người thì là chiếc bút, có người lại là quyển vở nhưng cũng không ít người nhớ nhung và yêu quý chiếc cặp sách thân thương.

Trên suốt chặng đường đi học không khi nào người ta thấy vắng bóng hình ảnh chiếc cặp sách. Vào năm 1988, nước Mỹ lần đầu tiên sản xuất ra chiếc cặp sách mang phong cách cổ điển. Từ sau 1988, cặp sách đã được sử dụng phổ biến nhiều nơi ở Mỹ và sau đó lan rộng ra khắp thế giới. Cặp sách thường có hình chữ nhật, vuông vức, gọn nhẹ phù hợp với người sử dụng. Cặp sách được thiết kế đa dạng về màu sắc với rất nhiều họa tiết trang trí. Đối với những bé gái chiếc cặp màu hồng in hình nàng công chúa barbie hay chú gấu xinh xắn, dễ thương luôn là một niềm mong ước. Còn các cậu bé trai thì ham mê chiếc cặp với những anh chàng siêu nhân trừ gian diệt ác đầy mạnh mẽ. Phía sau chiếc cặp là hai quai đeo ni lông bọc vải dày dặn, chắc chắn. Hai chiếc quai này không chỉ giúp các bạn học sinh đeo cặp dễ dàng, mà còn bảo vệ đôi vai non nớt có thể phát triển cân bằng. Chiếc cặp với sắc màu, hình thù rực rỡ kiểu cách đã trở thành kỉ niệm tuổi thơ của rất nhiều những cô cậu học trò. Và khi trên vai là chiếc cặp một màu tối giản thường là màu đen cũng là lúc đánh dấu trong lòng mỗi đứa trẻ đã và đang ngày một trưởng thành. Quai đeo giờ đây thay vì hai thì chỉ còn một chiếc hay được các bạn học sinh đeo chéo qua người. Tuy bề ngoài có khác nhưng kết cấu bên trong chiếc cặp không thay đổi là mấy. Chiếc cặp có hai ngăn chính rộng rãi đủ để hai hàng sách đều tăm tắp. Chiếc ngăn vừa nằm ở ngay trước cặp có thể đựng hộp bút, đôi ba tập giấy kiểm tra. Ở đó cũng không thiếu những chiếc ngăn nhỏ xinh nằm ở nhiều vị trí. Bên hông cặp thì có thể để chai nước giúp các bạn giải khát khi cần. Bên trong cặp, các ngăn nhỏ ấy lại có thể đựng vài chiếc kẹp tóc xinh xinh, vài ba món đồ chơi nho nhỏ như bi, súc sắc hay chiếc ô tô được trúng thưởng trong gói bim bim buổi sáng. Và có khi ở đó còn giấu một chút quà vặt để ăn cùng các bạn trong giờ nghỉ giải lao. Thế mới thấy chiếc cặp nhỏ vậy thôi nhưng lại có thể chứa đựng biết bao nhiêu là thứ đồ thú vị, hay ho.

Vì vậy có lẽ chiếc cặp sách không đơn giản chỉ có công dụng đeo đựng mà nó còn mang nhiều ý nghĩa hơn thế. Khi lần đầu tiên đeo cặp sách có đứa trẻ nào mà không vui mừng, nó đánh dấu một chặng đường tìm kiếm tri thức quan trọng, đầy ý nghĩa. Chiếc cặp bảo vệ sách vở, những món đồ bên trong khỏi mưa nắng, bụi bẩn. Đeo chiếc cặp trên vai dường như cũng chính là nhắc nhở bất cứ ai trách nhiệm đối với tri thức phải biết bảo vệ nâng niu và cả chính những kỉ niệm đi học của mình nữa. Và rồi thời gian trôi qua, rời xa phấn trắng bảng đen chiếc cặp sách ngày nào cũng phải để lại một nơi. Nhưng bên trong nó vẫn luôn chất chứa đủ những kỉ niệm vui vẻ tuổi học trò hồn nhiên, trong sáng mà ai cũng muốn một lần sống lại.

Với những ý nghĩa đối với học trò, nên chúng ta cần phải biết sử dụng, bảo quản đúng cách để chiếc cặp luôn song hành trên chặng đường đến với tri thức. Một số lời khuyên để sử dụng cặp đúng cách: chiếc cặp khi đeo không nên vượt quá 15% trọng lượng cơ thể. Nên xếp những đồ vật nặng nhất ở phần tiếp giáp với lưng, sách vở và đồ dùng xếp sao cho không bị xô lệch. Để tránh bị cong vẹo người, hai quai nên được đeo một cách ngay ngắn, đối với loại cặp chỉ có một quai thì cần thay đổi vai đeo cho đỡ mỏi. Ngoài ra cần thường xuyên lau chùi, vệ sinh để giữ độ mới của cặp. Không nên quăng cặp quá mạnh để tránh cặp bị rách. Khi trời mưa cần tránh để cặp không bị dính nước. Nếu để cặp ở những không gian hẹp như hộc tủ, hộc bàn sẽ gây chèn ép, làm cặp bị cong và vênh.

Chiếc cặp sách tưởng như bình thường, quen thuộc nhưng lại chính là một người bạn đồng hành thân thiết nhất trong cuộc đời đi học của mỗi con người. Vì vậy chúng ta hãy học cách nâng niu, trân trọng chiếc cặp sách của mình và cả những tháng ngày đồng hành bên nhau.

Học tập là một con đường đầy gian nan nhưng với cùng thú vị và đeo đẽ của cuộc đời mỗi con người. Trên con đường lĩnh hội tri thức ấy, không thể thiếu người bạn đồng hành là chiếc cặp sách thân thương.

Chiếc cặp sách của mặt trên thế giới lần đầu tiên là vào năm 1988, do nước Mỹ sản xuất ra. Chiếc cặp sách đầu tiên này mang phong cách cổ điển. Nó rất đơn giản, chỉ gồm một ngăn và đựng được một số tài liệu.Từ sau 1988, cặp sách đã được sử dụng phổ biến nhiều nơi ở Mỹ và sau đó lan rộng ra khắp thế giới. Đến đầu thế kỉ 21, cặp sách mới thật sự phổ biến ở nước ta và trở thành người bạn đồng hành trung thành với bất cứ học sinh, sinh viên nào. Cuối có rất nhiều loại và nhiều hãng. Tại nước ta, cặp của hãng Thủ Đô Vàng là được mọi người đánh giá cao và yêu thích nhất.

Chiếc cặp có cấu tạo rất đơn giản. Nó gồm hai phần là phía ngoài và phía trong cặp. Phía ngoài của nó chỉ có mặt cặp, quai xách, nắp mở, một số cặp có quai đeo,. Mặt cặp dành cho học sinh tiểu học thường có in các hình hoạt hình ngộ nghĩnh đáng yêu, màu sắc rực rỡ, bắt mắt. Còn cặp dành cho các học sinh lớn hơn và chi nhân viên công sở thường là mang một màu sắc, đơn giản và lịch sự. Nắp mở của cặp có thể là nút bấm hoặc khóa kéo. Nút bấm giúp người dùng dễ dàng mở và nắp lại hơn nhưng dễ bị hỏng, gãy. Khóa kéo giúp người dùng bảo quản đồ đạc tốt hơn nhưng trong quá trình sử dụng mất nhiều thời gian hơn.

Quai xách cặp làm bằng vải mềm, có may thêm một lớp bông đệm để bảo vệ da tay, tránh xây xát hay chai tay khi phải xách cặp nặng trong một thời gian dài. Cặp của học sinh tiểu học thường có quai đeo hai bên, bảo vệ sự phát triển tự nhiên cho hệ cơ và xương của trẻ em. Cặp dành cho người trưởng thành thường có dây đeo một bên, tạo sự trưởng thành, năng động. Bên trong có nhiều ngăn để đựng sách vở, bút viết, một số cặp còn có ngăn để đựng áo mưa hoặc chai nước. Các ngăn cặp được may thi mỉ, đường chỉ chắc chắn để có thể chứa được nhiều vật dụng. Thường có hai ngăn lớn và một ngăn nhỏ. Ngăn lớn dùng để đựng sách vở, laptop. Và ngăn nhỏ để đồ dùng học tập.

Có nhiều loại cặp sách khác nhau như: Cặp táp, cặp da, balo. Với nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như: Của Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc: Tian Ling, Ling Hao, mang những phong cách thiết kế riêng biệt. Tuy nhiên cách làm chúng đều có phần giống nhau. Lựa chọn chất liệu làm cặp cũng rất đa dạng. Có thể là vải nỉ, vải bố, da cá, da nhân tạo, vải tổng hợp. Ngày nay, để hưởng ứng chiến dịch bảo vệ môi trường, cặp tái chế cũng đang rất phổ biến. Việc tái chế lại chất liệu có thể sử dụng được lâu dài, bớt mùi nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng của chất liệu đó. Bởi vậy, cặp tái chế ngày nay được đánh giá cao và được mọi người hưởng ứng nhiệt tình. Quá trình khâu mau là quá trình vô cùng quan trọng. Thông thường các xí nghiệp sử dụng máy may để may từng phần của chiếc cặp lại với nhau theo thiết kế. Các công nhân may phải là người có kinh nghiệm lâu năm và là người con tinh thần trách nhiệm, nghiêm túc cao độ thì mới giảm thiểu sự sai sót tối đa. Cuối cùng là quá trình ghép nối các phần của cặp lại với nhau. Ghép các phần đã được may thành một chiếc cặp hoàn chỉnh rồi được tung ra thị trường với những giá cả khác nhau.

Tùy theo từng đối tượng mà con người có những cách sử dụng cặp khác nhau. Học sinh nữ thường dùng tay xách cặp hoặc ôm cặp vào người. Để thể hiện sự dịu dàng, thùy mị, nữ tính.Học sinh nam thường đeo chéo cặp sang một bên làm toát lên sự khí phách, hiên ngang, nam tính. Đeo cặp sang một bên còn thể hiện sự tự tin và năng động của các cậu thanh niên trẻ trung, nhiệt huyết. Học sinh tiểu học thường là đeo sau lưng để dễ chạy nhảy, chơi đùa cùng đám bạn. Nó phù hợp với sự nhí nhảnh, ngây thơ của lứa tuổi cấp 1. Còn các nhà doanh nhân sử dụng các loại cặp đắt tiền, xịn, thường thì họ xách trên tay. Thể hiện họ thật sự là những nhà doanh nhân thành đạt và có được nhiều thành công cũng như sự giúp ích của họ dành cho đất nước. Nhìn chung, khi mang cặp cần lưu ý không nên mang cặp quá nặng, thường xuyên thay đổi tay xách và vai đeo để đảm bảo sự phát triển cân đối của cơ thể.

Cặp là vật để chúng ta đựng sách vở, bút viết mỗi khi đến trường. Nó cũng là vật để che nắng, che mưa cho sách vở. Một số bạn cũng sử dụng cặp để che mưa cho chính bản thân. Cặp cũng là vật đã để lại không biết bao nhiêu kỷ niệm vui, buồn, đồng thời cũng tô lên nét đẹp của tuổi học trò – cái tuổi đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Cặp sách ngày càng được sáng tạo theo nhiều kiểu dáng mẫu mà mới để phục vụ thị hiếu của người tiêu dùng. Nó còn là vật mang theo bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi học trò.

Tuổi học trò của chúng ta ghi dấu với những ngày cùng các bạn đến trường, cười nói và vui đùa với nhau. Nhưng không phải ai cũng biết chúng ta luôn có một người bạn âm thầm ở sau lưng theo dõi và giúp đỡ chúng ta ngày nắng cũng như ngày mưa. Đó là những chiếc cặp sách.

Quê hương của chiếc cặp ở một nơi rất xa xôi. Đó là nước Mỹ. Nó lần đầu tiên được sản xuất ở cường quốc này vào năm 1988 với phong cách cổ điển. Nhờ sự tiện lợi và công dụng tuyệt vời, nó trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Mỗi loại cặp sẽ có cấu tạo khác nhau nhưng nhìn chung luôn đảm bảo hai phần. Thứ nhất là phần bên ngoài. Đó có thể là hai dây đeo hai bên, cũng có thể là tay cầm. Ngoài ra còn có nắp mở hoặc những chiếc khóa. Phần thứ hai là phần bên trong gồm các ngăn để đựng đồ, có ngăn to ngăn bé. Thậm chí trong một ngăn to còn có thêm một vài ngăn bé xíu để đựng các phụ kiện nhỏ. Một chiếc cặp có thể có ít hoặc nhiều ngăn, tùy vào nhu cầu của người sử dụng. Công đoạn để làm ra một chiếc cặp cũng đòi hỏi nhiều sự tỉ mỉ.

Các hãng cặp phải tự lên ý tưởng và thiết kế kiểu dáng mang dấu ấn thương hiệu mà vẫn phù hợp với tiêu chí khách hàng. Sau đó là sự lựa chọn chất liệu thường lại vải nỉ, vải bố, vải da. Đó là những loại vải bền và đẹp, chi phí lại phải chăng. Tuy nhiên chúng cần phải được qua một số khâu xử lí để loại bỏ mùi. Đến khâu quan trọng nhất là khâu may. Các bộ phận sẽ được may rời rồi ghép lại với nhau. Những người thợ may chăm chú vào từng đường chỉ, những chiếc máy hoạt động ngày đêm. Trước khi chiếc cặp được xuất ra thị trường sẽ được kiểm tra xem có lỗi không và đóng gói. Quy trình chung là như thế nhưng cũng sản xuất ra rất nhiều loại cặp như cặp táp, cặp da hay ba-lo. Một số hãng cặp nổi tiếng được yêu thích đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, hay hãng Thủ Đô Vàng.

Nhắc đến cặp sách, người ta hay nghĩ ngay đến đối tượng sử dụng là học sinh. Nhưng trên thực tế chúng dành cho mọi đối tượng. Với các em nhỏ hay cấp một, cấp hai, những chiếc cặp còn được in hình công chúa siêu nhân với rực rỡ sắc màu. Cặp sách giúp đựng đồ dùng, sách vở tài liệu, tạo cho người dùng sự gọn gàng và chững chạc, tránh làm thất thoát đồ. Chưa kể với sự cải tiến không ngừng về kiểu dáng, những chiếc cặp sách giờ đây còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của người dùng, có thể biến nó thành một phụ kiện giúp bạn nổi bật giữa đám đông. Với học sinh, những cô cậu học trò tinh nghịch còn chẳng ngại dùng cặp để che nắng che mưa. Nó cũng giúp bảo quản sách vơt khỏi các tác nhân bên ngoài. Và chiếc cặp là một kỉ vật thiêng liêng của quãng đời học sinh. Có những người vẫn giữ gìn và trân quý chiếc cặp một thuở đến trường dù nó đã sờn cũ theo năm tháng. Vì giờ đây chiếc cặp ấy đã hóa thành nơi lưu giữ ký ức.

Để chiếc cặp được bền lâu, chúng ta nên có ý thức giữ gìn. Không nên vứt cặp lung tung mà sau khi sử dụng thì nên treo gọn gàng. Thường xuyên đem ra vệ sinh giặt giũ để loại bỏ bụi bẩn, tránh mốc meo, trông chiếc cặp luôn tươi mới. Ngoài ra chúng ta nên mang đồ vừa đủ với trọng lượng mà chiếc cặp có thể chứa để tránh hỏng khóa hoặc đứt dây đeo.

Trong cuộc sống chúng ta rất cần sự trợ giúp của những chiếc cặp sách để công việc đơn giản hơn. Bởi vậy hãy yêu thương và trân trọng ngay cả những đồ vật thân quen vì chúng thực sự có giá trị với chúng ta.

Ai đã từng trải qua thời học sinh, chắc hẳn bên cạnh những vật dụng thân thương như bút, vở, sách, thước, thì chiếc cặp sách cũng là một phần không thể thiếu mỗi ngày. Chiếc cặp đã gắn bó với chúng ta trong rất nhiều năm học với rất nhiều công dụng hữu ích.

Có thể nói, trong số các vật dụng thì chiếc cặp có hình dạng to nhất. Chẳng biết tự bao giờ, chiếc cặp được ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu đựng các vật dụng cho con người. Từ thuở ông cha ta, hình dáng và chất liệu của chiếc cặp rất đơn giản, chỉ bao gồm những mảnh da hoặc miếng vải lớn được may nối lại với nhau, nắp cặp có khóa kéo hoặc dây kéo để đóng mở cặp. Việc phát minh ra chiếc cặp sách được ra đời vào năm 1988, trải qua nhiều năm, chiếc cặp đã có nhiều cải tiến. Tuy nhiên, những bộ phận quan trọng nhất của chiếc cặp vẫn bao gồm: nắp cặp, quai xách, khóa kéo, các ngăn khóa. Mỗi ngăn trong chiếc cặp sẽ có những công dụng khác nhau, như ngăn to dùng để đựng sách, bài kiểm tra để sách vở không bị nhăn nhúm, còn ngăn bé thì để đựng đồ dùng học tập, áo mưa, ví tiền và các vật dụng cá nhân khác.

Để sản xuất ra được một chiếc cặp, yêu cầu người làm phải rất tỉ mỉ, cẩn thận và trải qua nhiều công đoạn. Khâu lựa chọn chất liệu là quan trọng nhất, vì tùy thuộc vào yêu cầu và giá tiền mà có rất nhiều loại chất liệu được lựa chọn. Ví dụ như, đối với các bạn học sinh nhỏ tuổi thì cần lựa chọn loại vải nhẹ, mềm để không gây sức nặng trên đôi vai của các bạn. Đối với những bạn lớn hơn, thì thường là chất liệu da, vừa để chống thấm nước, vừa để phù hợp với lứa tuổi của các bạn. Đặc biệt hiện nay, cặp còn được làm chất liệu bằng nhựa nhẹ, phía dưới được lắp bánh xe để các bạn học sinh có thể kéo, thay vì phải đeo cặp cùng rất nhiều sách vở trên vai. Màu sắc của chiếc cặp cũng rất đa dạng và bắt mắt, với các hình ảnh và màu sắc sặc sỡ, thu hút các bạn học sinh.

Nhờ có chiếc cặp mà mỗi ngày đi học, chúng ta không cần lo lắng đến việc để sách vở bừa bộn, hay lo trời nắng mưa ảnh hưởng đến các đồ vật. Chiếc cặp còn dành được rất nhiều tình cảm của các bạn học sinh, khi tôi vẫn nhớ đến đầu tiên, được nhận món quà đầu tiên là chiếc cặp mới tinh màu hồng. Cảm xúc của lần ấy vẫn mãi in đậm trong tôi. Chiếc cặp đi theo những ngày đầu đến trường, chứng kiến các bạn học sinh miệt mài, chăm chỉ học tập.

Để bảo vệ độ bền của chiếc cặp, chúng ta cần sắp xếp hợp lý những vật dụng phía trong chiếc cặp để tránh bị đứt dây do quá nặng. Hơn nữa, nếu đeo chiếc cặp vượt quá 15% trọng lượng cơ thể của mình, sẽ gây ra các căn bệnh về vai và lưng, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển xương của các bạn học sinh. Khi mua cặp, nên chọn loại quai đeo có độn bông, mút hoặc vải. Hiện nay, ở Nhật bản còn có loại cặp được sản xuất riêng cho học sinh tiểu học. Tuy giá thành hơi cao, nhưng về chất liệu và hình dáng thì vô cùng gọn nhẹ, phù hợp với nhu cầu và sức khỏe của các bạn. Chúng ta cần có ý thức giữ gìn chiếc cặp, lau khô khi chiếc cặp bị ướt bởi trời mưa, các dây kéo và ổ khóa thì cần được sử dụng nhẹ nhàng.

Tuy chiếc cặp chỉ là một đồ vật nhưng tầm quan trọng và mức độ thân thiết chẳng khác nào một người bạn với mỗi người học sinh. Chiếc cặp luôn đồng hành với chúng ta đến trường, giúp ta mang những nguồn tri thức mới.

Trên mọi nẻo đường của cuộc sống, nẻo đường nào cũng luôn có sự góp mặt của những đồ vật hữu ích. Nếu như với mỗi nhiếp ảnh gia, máy ảnh là vật bất ly thân thì với tất cả học sinh, chiếc cặp sách lại là thứ không thể không mang theo bên mình. Cặp sách là một trong những đồ dùng quen thuộc của lớp lớp học sinh.

Cặp sách ra đời theo nhu cầu chứa đựng đồ vật trên những quãng đường dài. Con người đã nghĩ đến một túi xách. Cặp sách sơ khai chỉ là một cái túi có buộc dây. Cuộc sống phát triển, người ta muốn đựng được nhiều đồ hơn nên cải tiến những chiếc túi đó. Cặp sách nhờ vậy cũng ra đời theo. Năm 1988 từ đó đến nay, hình thức và chức năng của chiếc cặp không ngừng được sáng tạo để phù hợp hơn với nhu cầu sử dụng và văn hóa của các quốc gia. Chắc chắn một điều rằng, chiếc cặp xách có thể được đưa vào danh sách hàng loạt những phát minh quan trọng của loài người. Năm 1988, nước Mỹ lần đầu tiên sản xuất ra chiếc cặp sách mang phong cách cổ điển. Sau đó, nó được sử dụng tại nhiều nơi ở ỹ và nhanh chóng phổ biến trên toàn thế giới. Học sinh sử dụng những chiếc cặp để đựng sách vở khi đến trường nên nó được gọi là cặp sách học sinh.

Do nhu cầu và thị hiếu người dùng, cặp sách được thiết kế phong phú đa dạng. Cặp sách mang hình dáng chung là hình chữ nhật hoặc hình thang cân, được thiết kế kích thước đựng vừa hoặc rộng hơn quyển sách chiều dài rộng, cao tùy thuộc nhu cầu và đối tượng sử dụng. Các em học sinh nhỏ tuổi hơn có thể dùng chiếc cặp sách nhỏ nhẹ vừa sức của mình. Trước đây, cặp sách chủ yếu được làm bằng vải nilon, cotton bền và chắc, da giả hoặc vải mềm. Sau này, người ta còn dùng nhựa dẻo và vải nhân tạo. Màu sắc của cặp sách rất đa dạng, học sinh cấp hai, cấp ba thường thích màu đơn giản là màu nâu, đen. Bắt mắt hơn thì sẽ là nhiều màu kết hợp, trang trí thêm hình vẽ yêu thích như hoạt hình, búp bê, siêu nhân với học sinh nhỏ tuổi.

Cặp sách là vật dụng đựng sách của học sinh nên có thiết kế chuẩn mực chung. Nó cấu tạo bởi khung, các ngăn chứa, quai xách, dây đeo, để kẹp, nắp đậy, dây kéo. Khung cặp làm bằng thép, nhựa cứng hoặc giấy cứng, được tạo ra để giữ cho cặp không bị biến dạng. Mỗi chiếc cặp thường có ít nhất ba ngăn được ngăn cách với nhau và đóng mở nhờ dây kéo hoặc nắp đậy. Dây kéo sử dụng khóa, nắp đậy có thể dùng nam châm hoặc chất dính. Trong các ngăn cặp sẽ có ngăn chính đựng sách, vở. Ngăn này rộng hơn các ngăn khác. Ngoài ra sẽ có ngăn nhỏ ở hai bên ngăn chính để đựng đồ dùng nhỏ hơn như bút, thước, chì, compa. Ngoài ra nhiều chiếc cặp còn có cả ngăn phụ ở hai bên, dạng lưới thuận tiện cho việc mang nước hoặc ô đi học. Học sinh có thể xách cặp nhờ quai xách hoặc đeo nó lên vai bằng dây đeo cân đối với chiều cao cơ thể.

Mỗi chiếc cặp lại có một logo, nhãn hiệu riêng dán bên ngoài cùng thông tin sản phẩm. Có nhiều thương hiệu đã trở nên nổi tiếng, nhận được sự tin dùng của nhiều thế hệ như Thủ đô vàng. Cặp sách bước vào cuộc sống và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống ấy. Đặc biệt, nó chính là người bạn đồng hành của chúng ta trong suốt quãng đời học sinh. Cặp sách bảo vệ những cuốn sách, quyển vở, đồ dùng học tập khỏi nắng, khỏi mưa, tiếp sức cho con đường chiếm lĩnh tri thức. Suốt tháng năm học trò, nó chính là người chứng kiến bao buồn vui, ngây thơ và hồn nhiên của một thời hoa phượng đỏ. Ngày còn đi học, cô cậu học trò nào chẳng tung tăng cắp sách đến trường. Lớn lên rồi, trưởng thành, đi làm, bao người vẫn tin dùng cặp sách để đựng tài liệu, máy vi tính phục vụ cho sự nghiệp của mình.

Học tập là hành trình không dừng chân của tất cả chúng ta. Và chiếc cặp sách chính là người bạn đồng hành hữu ích. Nhiều loại túi xách hiện đại ra đời vẫn không làm mất đi ý nghĩa quan trọng của chiếc cặp sách – thứ mà mỗi khi nhắc tới ai cũng nghĩ ngay tới quãng đời học sinh.

Đời học sinh gắn liền với biết bao thứ đồ dùng học tập, nào bút, nào vở, nào thước và nhiều thứ khác nữa. Nhưng có lẽ gắn bó nhất vẫn là chiếc cặp sách, nó được ví như người anh cả trong những đồ dùng học tập của đám học trò chúng tôi, che chở, bảo vệ cho sách vở, bút thước khỏi rơi vãi, thất lạc.

Sơ lược về lịch sử, cặp sách được sản xuất và đưa vào sử dụng lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1988, với phong cách đậm chất cổ điển và kiểu dáng đơn giản. Sau đó với nhiều lợi ích trong quá trình sử dụng, trào lưu dùng cặp sách đã nhanh chóng lan rộng khắp Mỹ và sang nhiều nơi trên thế giới, trở thành một phụ kiện thiết yếu. Cặp sách có cấu tạo tương đối đơn giản, bên ngoài được che đậy bằng mặt cặp, phía trên thân cặp có gắn quai để xách, một số cặp có cả quai để đeo. Tùy vào loại cặp nhà sản xuất sẽ thiết kế nắp đóng hoặc khóa kéo để đóng mở cặp cho dễ dàng. Phía bên trong cặp được chia làm nhiều ngăn để đựng sách vở, bút, thước, và các vật dụng khác cho khỏi lẫn lộn vào nhau, thuận tiện cho việc tìm kiếm đồ dùng.

Về chủng loại, qua một thời gian dài phát triển, ngày nay cặp sách có rất nhiều mẫu mã đa dạng khác nhau, phù hợp với mục đích sử dụng của từng đối tượng khác nhau, với nhiều tên gọi như: Ba lô, túi xách, cặp táp, cặp da. Trên thị trường hiện nay có rất nhiều thương hiệu lớn chuyên sản xuất các loại cặp này phải kể đến như: Simplecarry, Herschel, Jansport, Tucano, Nike, The North Face các thương hiệu này chủ yếu đến từ Mỹ, Canada và Nhật Bản. Riêng ở Việt Nam thì có Sakos cũng khá được ưa chuộng. Tuy khác nhà sản xuất nhưng đại đa số chúng đều có chung một vài kiểu dáng và thiết kế nhất định.

Để sản xuất cặp sách các công ty may thường lựa chọn các chất liệu có độ bền cao, như vải nỉ, vải bò, vải bố, vải giả da. Với các loại cặp đắt tiền thì da động vật là lựa chọn số 1, đơn cử là da cá sấu, ngoài ra còn có nhiều chất liệu đặc biệt khác. Các nhà tạo mẫu sẽ tiến hành thiết kế mẫu, rồi gửi bản vẽ đến xưởng may để tiến hành cắt vải theo mẫu của từng bộ phận, sau đó ráp các phần lại với nhau bằng máy may công nghiệp. Thường thì cặp sách được sản xuất đại trà với một số lượng lớn theo dây chuyền có sẵn, nhằm giảm chi phí nhân công và nâng cao hiệu suất, giảm giá thành.

Với mỗi một nhãn hiệu, kiểu dáng cặp sách, nhà sản xuất sẽ đưa ra một mức giá khác nhau, mức giá bình dân trong tầm khoảng vài trăm ngàn là có một chiếc cặp xinh xắn, tuy nhiên cũng có những chiếc cặp cộp mác hàng hiệu với giá lên tới hàng chục triệu đồng. Vì thế tùy vào giới tính, độ tuổi và khả năng kinh tế thì mỗi người nên lựa chọn cho mình một chiếc cặp phù hợp, và cách sử dụng cặp của mỗi người cũng khác nhau. Các bạn học sinh nữ thì đeo cặp trên vai hoặc ôm cặp nhìn vừa dễ thương lại dịu dàng nữ tính, các bạn nam thì thích đeo cặp chéo hoặc mang ba lô thể hiện sự tự tin, mạnh mẽ. Đối với người đi làm nơi công sở, họ thường chọn cho mình chiếc cặp có giá trị cao, nam thì xách cặp da, nữ thì đeo túi xách thể hiện sự nghiêm túc, trưởng thành.

Tuy nhiên cho dù có là ai, dùng loại cặp sách nào thì cũng nên lưu ý cách sử dụng, không nên xách cặp quá nặng để tránh mỏi tay và hư hỏng cặp sách vì quá tải. Bất kỳ đồ dùng nào cũng vậy khi sử dụng chúng ta cũng cần phải bảo quản cẩn thận, đặc biệt là cặp sách, vật dụng luôn đi theo bên cạnh ta. Chúng ta không nên quăng hay ném cặp lung tung mà nên để cặp gọn gàng vào một góc bàn học hoặc bàn làm việc cho sạch sẽ. Định kỳ lau chùi và giặt cặp thật cẩn thận để giữ gìn cho cặp luôn sạch đẹp. Nếu chẳng may cặp bị rách hay sứt chỉ, hãy đem đi sửa, không nên bỏ đi để tránh lãng phí.

Công dụng chủ yếu của cặp sách là để đựng đồ dùng học tập cho học sinh khi đến trường, ngoài ra nó còn là nơi để tài liệu, giấy tờ hay các đồ dùng cá nhân khác. Cặp sách là người bạn thân thiết theo bước chân chúng ta tới trường mỗi ngày, chẳng quản ngại nắng mưa, ghi vào trong lòng mỗi học sinh biết bao kỷ niệm yêu dấu, chẳng phai nhòa.

Như những dụng cụ học tập khác, cặp sách đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong bước đường thành công của từng học sinh, như người hùng hy sinh thầm lặng, chẳng xung phong chiến đấu như anh bút, anh vở, mà lúc nào cũng âm thầm che chở, là hậu phương vững chắc. Vì thế chúng ta cần phải hết sức trân trọng chiếc cặp sách thân yêu của mình, bởi lẽ nếu quên cặp sách đồng nghĩa với việc quên hết tất cả bút, thước, sách vở.

Advertisement

Đã là một học sinh chăm ngoan cắp sách đến trường thì ai cũng phải có những đồ dùng học tập thân thiết. Trong số đó, gần gũi với ta nhất có lẽ là bạn cặp sách.

Cặp sách là phương tiện cần thiết dùng để đựng sách vở, đồ dùng… Có thể nhận thấy rằng kể từ khi con người có nhu cầu về lưu giữ và mang theo đồ vật bên mình thì cặp sách đã có chỗ đứng trong đời sống hằng ngày.

Theo một số nguồn đáng tin cậy thì vào năm 1988, chiếc cặp đầu tiên đã ra đời ở nước Mỹ. Lúc này, cặp còn mang phong cách cổ điển và ít được ưa chuộng. Nhưng sau năm 1988, nhờ quá trình tân trang và cải tiến, cặp dần trở nên phổ biến và kết bạn với bạn bè khắp thế giới.

Cặp gồm có nhiều loại như cặp da, ba-lô, cặp dây đeo… Họ hàng nhà này có phần gần gũi với túi xách, bóp ví,… Tuy mỗi loại đều có nét đẹp riêng song đều có cấu tạo khá giống nhau.

Hầu hết cặp sách thường được thiết kế gồm cấu tạo ba phần là mặt ngoài, phần lưng và mặt trong. Mặt ngoài gồm có mặt cặp, quai, nắp mở hay phéc-mơ-tuya… Mặt cặp thường được trang trí lộng lẫy bằng các anh siêu nhân mạnh mẽ hay các cô tiên duyên dáng nhưng đôi khi chỉ đơn giản khoác bộ áo một màu. Hầu như mặt cặp đều có màu tối để tránh bẩn. Quai cặp gồm có quai xách và quai đeo. Quai xách thường được gắn phía trên cùng của chiếc cặp, để người dùng xách cặp bằng tay. Quai đeo gồm có hai cái gắn sau lưng cặp, được thiết kế giúp giảm trọng lượng đồ vật mang theo, ngăn ngừa cong vẹo cột sống. Dựa theo nguyên tắc đòn bẩy, quai còn có khóa tăng giảm chiều dài giúp điều chỉnh linh hoạt theo vóc dáng người mang. Khóa thường làm bằng nhựa hoặc hợp kim, bẻ không gãy và đều không sử dụng chất độc hại. Khóa cặp đạt tiêu chuẩn nhất là khóa nhựa châu Âu. Song song với khóa nhựa còn có những hàng phéc-mơ-tuya xếp thành dải như những chiếc miệng mở ra rồi đóng lại. Những nhà sản xuất cũng rất am hiểu khách hàng khi họ may thêm cho chúng ta hai túi đựng nước, ép sát vào hai bên chiếc cặp.

Nối liền giữa mặt ngoài và mặt trong chiếc cặp là phần lưng cặp. Phần lưng thường đệm mút và có rãnh thoát khí giúp ta thấy êm và thoáng mát khi mang.

Mở cặp ra, ta sẽ thấy mặt trong của chiếc cặp. Phần này gồm nhiều ngăn được may nối tiếp nhau. Chúng là những chiếc khoang xinh xắn để ta đựng sách vở, bút thước, tài liệu… Thường trong một chiếc cặp có cắt ra một ngăn nhỏ hơn để đựng tiền hoặc những vật nhỏ. Tùy vào người dùng mà các ngăn, các túi được phân công nhiệm vụ rõ ràng giúp tìm kiếm nhanh và hiệu quả.

Trải qua nhiều năm, chiếc cặp vẫn nằm trên lưng cô cậu học sinh, sinh viên; cùng họ đến trường. Cặp đã không thể tách rời một giây phút nào khỏi người học trò. Ngày nay, rảo bước trên phố, ta luôn bắt gặp những hãng cặp uy tín và chất lượng: Miti, Bom, The North Face… Tuy khác nhau nơi mẫu mã, giá thành nhưng chúng đều giống nhau về phương tiện, cách thức sản xuất.

Để làm ra một chiếc cặp, người sản xuất phải trải qua một quá trình. Khâu đầu tiên là lựa chọn vật liệu, loại vải. Đa số nhà sản xuất chọn vải nilon tốt vì loại này chống thấm và ít độc hại. Bên cạnh đó, da cũng là nguyên liệu tốt vì tính bền và không thấm nước. Sau khi lựa chọn chất liệu, người ta chuyển sang xử lí. Ở giai đoạn này, chủ yếu là xử lí bề mặt như làm nhẵn, dát mỏng hay chỉnh sửa. Xong xuôi, vật liệu được chuyển về các xí nghiệp để tiến hành quá trình khâu may. Hiện nay, chủ yếu dùng máy may vì nó chính xác, đều và đẹp. Khi đã may xong từng phần, người ta đem nối ghép chúng lại. Và thế là một chiếc cặp ra đời! Nó sẽ rong chơi ở các cửa tiệm trong một thời gian ngắn rồi đến tay người tiêu dùng và thực hiện sứ mệnh cao cả của mình.

Cặp đẹp hay xấu, bền hay nhanh hư còn phụ thuộc vào các cô cậu chủ nhân đáng kính. Để cặp giữ được lâu, đầu tiên ta phải không được bắt nó mang vật quá nặng. Tiếp đó, ta không được quăng cặp mạnh tay vì sẽ làm đứt chỉ. Ta cũng phải lau chùi hoặc giặt cặp theo định kì để giữ cặp được mới, đẹp. Lưu ý, không dùng hóa chất tẩy rửa kẻo làm bay màu và không ủi vì sẽ gây biến dạng khuôn mặt xinh xắn của cặp. Hãy là một chủ nhân tốt!

Cặp có bền, có đẹp thì mới có thể đựng sách vở, bút thước,… Mới có thể che nắng, che mưa cho sách vở. Mới có thể che cho chủ nhân mình khỏi cái nắng, cơn mưa bất chợt!

Khi sử dụng, người mang thường có cách mang riêng. Phụ nữ thường ôm cặp vào người để thể hiện sự dịu dàng, thùy mị. Trong khi đó, đàn ông đeo chéo sang một bên hoặc xách trên tay để ra phong thái hiên ngang, đàng hoàng. Lứa tuổi học sinh thường đeo sau lưng để tay chân tự do, thoải mái chơi đùa, chạy nhảy.

Khi đeo cặp lâu ngày khiến cặp hư cũ, tôi mách bạn nên dùng xi đánh giày không màu đánh một lớp mỏng lên bề mặt cặp. Như phép màu, cặp sẽ bóng loáng và mới toanh trở lại!

Cặp là người bạn chí thân chí thiết của bao nhiêu người bởi công dụng mang đựng rất cần thiết của nó. Tôi vẫn luôn tự nhủ với mình rằng: “Cặp – người bạn tri kỉ của tôi”. Hãy yêu cặp và giữ gìn cặp cẩn thận để nó mãi mới, đẹp như thuở mới mua về.

Bước vào năm học mới, bố mua cho em một chiếc cặp sách ở quầy đồ dùng thiếu nhi. Từ buổi đầu khai giảng, chiếc cặp đã là người bạn nhỏ đáng yêu của em. Chiếc cặp của em hình chữ nhật, chiều dài của cặp khoảng hai gang tay người lớn, chiều ngang của cặp khoảng một gang rưỡi, đáy cặp rộng đến gần một gang tay của em. Cặp của em là loại cặp học sinh làm bằng giả da màu xanh da trời. Mỗi lần xoa tay lên mặt cặp mịn và láng bóng ấy, em cảm thấy mát và trơn, thích thú vô cùng. Đường khâu xung quanh cặp làm bằng chỉ dù màu đỏ, mũi khâu đều và thẳng. Các góc cặp lượn tròn có viền ni lông màu trắng tăng thêm vẻ duyên dáng cho chiếc cặp. Phía trên có một quai xách to bằng nửa cổ tay em, cong cong hình cầu vồng được đính chặt bằng hai chiếc đinh dẹp. Quai đeo ở sau lưng được may bằng vải ni lông to bản trơn như loại dây dù, rất chắc chắn. Em thử đeo chiếc cặp lên vai, đứng trước gương ngắm nghía, trông em thật chững chạc và khỏe mạnh. Mặt trước của cặp là một cái ngăn bằng tấm mê ca mỏng, phía trong là bức tranh hai chú gấu Misa đang dắt tay nhau đi trên hè phố tấp nập người qua lại. Em dùng tay ấn lên hai chiếc khóa bằng mạ kền sáng loáng như đôi mắt long lanh đang chăm chú nhìn em. “Tách! Tách!” Âm thanh phát ra từ ổ khóa nghe thật vui tai. Nắp cặp được mở, lộ ra hai ngăn được lót bằng những mảnh vải nỉ mềm, mỏng với những đường sọc vằn như những nét hoa văn trang nhã. Ngăn cặp thứ nhất, em đựng sách vở. Ngăn thứ hai, em đựng các đồ dùng học tập như: hộp bút, thước kẻ, eke đo độ, bảng con, bông bảng, tập giấy kiểm tra in sẵn…

Hàng ngày, cặp theo bước chân em tung tăng đến trường, đến lớp và ngồi yên lặng trong ngăn bàn theo dõi em học tập. Về đến nhà, em nâng niu chiếc cặp một lúc rồi mới để vào chỗ quy định. Em coi chiếc cặp như người bạn thân thiết của mình. Em giữ gìn chiếc cặp rất cẩn thận, không để bụi bẩn bám vào và thường xuyên lau chùi bằng một chiếc khăn mùi soa mềm để giữ cặp được bền.

Bước vào năm học mới, mẹ đưa em đi chợ để sắm đồ dùng học tập. Nào là sách vở, bút thước và một chiếc cặp sách rất đẹp. Chiếc cặp sách của em được làm bằng vải cứng, có dáng hình chữ nhật và có màu xanh trông rất bắt mắt. Bên ngoài có in hình hai hai con búp bê vì mẹ biết em rất thích chơi búp bê. Giữa phần nắp cặp và thân cặp được gắn với nhau bằng hai móc nhựa, rất tiện lợi cho việc mở và đóng. Đằng sau là hai dây đeo để em có thể đeo cặp trên lưng, chiếc cặp còn có một quai xách phụ để khi đeo mỏi lưng em có thể xách bằng tay. Bên trong chiếc cặp có rất nhiều ngăn. Em đếm được tất cả năm ngăn, trong đó có hai ngăn rộng, hai ngăn nhỏ hơn và một ngăn bé. Hai ngăn rộng em dùng để đựng sách vở, một ngăn đựng sách và một ngăn đựng vở.

Một ngăn nhỏ hơn được dùng để đựng các đồ dùng học tập khác như hộp bút, bảng, hộp phấn, một ngăn nhỏ nữa em dùng để để mũ ca nô và khăn quàng đỏ. Đặc biệt chiếc cặp còn có một ngăn bé xíu dùng để đựng một số đồ quan trọng như tiền mẹ cho em ăn sáng và có một cuốn sổ nhỏ. Vì chiếc cặp có nhiều ngăn nên rất tiện lợi cho việc để đồ dùng, mỗi đồ dùng đều có vị trí riêng, tránh lộn xộn như khăn đỏ và mũ ca nô để với hộp phấn thì sẽ rất bẩn, đồng thời khi muốn lấy đồ dùng gì thì chỉ cần nhớ đúng ngăn là lấy sẽ rất nhanh, tránh mất quá nhiều thời gian. Hơn thế nữa, mỗi ngăn đều có một cái khóa riêng rất cẩn thận giúp mọi đồ dùng bên trong không bị rơi ra ngoài.

Bạn học sinh nào cũng có một chiếc cặp như vậy, nhưng em thấy chiếc cặp của em là đẹp nhất không bởi vì kiểu dáng của nó đẹp mà đó là chiếc cặp mà mẹ mua cho em. Nó thể hiện sự yêu thương quan tâm mà mẹ dành cho em. Chính vì vậy em giữ gìn chiếc cặp rất cẩn thận, khi đến lớp cũng như về nhà em để chiếc cặp nhẹ nhàng lên bàn học chứ không tùy tiện vứt mọi nơi khi về nhà, đặc biệt những hôm trời mưa em cho chiếc cặp vào một chiếc túi bóng để tránh bị ướt sẽ nhanh hỏng. Em rất yêu quý chiếc cặp sách của mình. Em hứa sẽ giữ gìn nó cẩn thận để chiếc cặp được bền và theo em suốt năm học.

Chiếc cặp sách vốn rất phổ biến trong đời sống, được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh. Suốt quãng đời cắp sách tới trường, người học sinh luôn bầu bạn với cặp, sách, vở, bút, thước,… và coi đó là những vật dụng không thể thiếu được.

Cặp là một vật dụng dùng để chứa đựng và di chuyển đồ dùng khi đi xa, đi làm hoặc đi học… Chiếc cặp học sinh dùng để chứa đựng sách vở khi đến trường nên thường được gọi là cặp sách

Để chứa đựng những vật nhỏ khi đi xa, từ xa xưa con người đã nghĩ đến một túi xách. Lúc ban đầu chỉ là một cái túi có buộc dây. Khi xã hội phát triển, do nhu cầu cần chứa đựng nhiều hơn và di chuyển gọn nhẹ người ta đã sáng tạo ra những túi xách tiện lợi. Chiếc cặp đã ra đời từ đó. Năm 1988, nhận thấy đây là một cơ hội lớn, người Mỹ đã thiết kế những mẫu cặp và sản xuất hàng loạt. Tuy nhiên, nó vẫn còn mang phong cách cổ điển.

Từ đó đến nay, hình thức và chức năng của chiếc cặp không ngừng được sáng tạo để phù hợp hơn với nhu cầu sử dụng và văn hóa của các quốc gia. Chắc chắn một điều rằng, chiếc cặp xách có thể được đưa vào danh sách hàng loạt những phát minh quan trọng của loài người.

Từ chiếc cặp xách ấy, con người sử dụng để chứa đựng sách vở của học sinh khi đến trường. Bởi thế nó thường được gọi là cặp sách học sinh.

Hầu hết các cặp đều có hình chữ nhật hoặc hình thang cân. Kích thước: thường có chiều dài 40 cm, chiều cao 30 cm, chiều ngang 16 cm. Màu sắc: Thường màu đen hoặc được trang trí nhiều màu phù hợp với thị hiếu người sử dụng. Tùy theo lứa tuổi và sở thích mà người ta sản xuất cặp có màu sắc khác nhau.

Chất liệu chủ yếu được làm bằng vải nilon, cotton rất bền chắc. Cũng có nhiều chiếc cặp được làm bằng vải mềm, da thú, polyme dẻo. Ngày nay, người ta còn sản xuất những chiếc cặp bằng nhựa cứng hoặc kim loại nhẹ rất bền để dùng trong những công việc đặc dụng.

Cặp của học sinh thường được gọi thành cặp sách bởi nó được dùng để mang sách vở đến trường. Cặp sách học sinh thường được thiết kế phù hợp với đối tượng học sinh tùy theo từng lứa tuổi hết sức đa dạng và tiện lợi.

Chiếc cặp có cấu tạo rất đơn giản gồm: khung, các ngăn chứa, quai xách, quai mang (hoặc quai đeo), đế cặp, nắp đậy, dây kéo. Để giữ cho cặp không bị biến dạng khi sử dụng, người ta thường tạo khung cho cặp. Khung cặp có thể được làm bằng thép, nhựa cứng hoặc giấy cứng.

Mỗi cặp thường có ít nhất 4 ngăn chứa, được đóng mở bởi dây kéo hoặc nắp đậy. Ngăn lớn của cặp dùng chứa đựng sách, vở. Các màng ngăn được may chắc chắn. Trong các ngăn chứa lớn thường có các ngăn chứa nhỏ để đựng các vật nhỏ như hộp bút, thước và các vật dụng nhỏ gọn khác.

Mỗi cặp thường có một quai xách và một quai đeo. Quai xách ngắn, được gắn ở trên cùng giữa cặp. Quai xách dùng để xách cặp. Quai đeo dài hơn, móc vào phía hai đầu cặp bằng bộ phận móc kim loại để chống xoắn. Quai đeo dùng để đeo cặp trên vai, hỗ trợ lực cho quai xách. Đối với cặp học sinh thường có quai mang trên lưng.

Người ta còn gắn một đế nhựa cho cặp để giữ cặp đứng vững khi đặt xuống. Cặp sách học sinh thường không có đế. Nắp cặp là bộ phận bảo vệ không cho các vật dụng rơi ra ngoài. Nếu dùng dây kéo thì người ta không làm nắp đậy.

Để tạo ra một chiếc cặp sách người ta phải trải qua nhiều công đoạn phức tạp. Đầu tiên là phải thiết kế mẫu mã. Người ta thường thiết kế nhiều mẫu mã cho từng loại cặp khác nhau. Ở mỗi loại cặp người ta còn chọn cách trang trí, phối màu hoặc tạo các hoa văn bắt mắt thu hút người sử dụng

Lựa chọn chất liệu để làm cặp là khâu rất quan trọng. Chất liệu sử dụng thường là vải nỉ, vải bố, vải cotton cứng, da cá sấu, vải da. Sau khi có chất liệu, người ta đem cắt theo khuôn khổ định sẵn.

Thông thường các xí nghiệp sử dụng máy may để may từng phần của chiếc cặp lại với nhau theo thiết kế. Ngoài sản xuất công nghiệp, có một vài loại cặp người ta may thủ công, tạo ra những mẫu mã bắt mắt, phù hợp với người sử dụng. Những loại cặp này thường rất đắt tiền, thường dành cho những người giàu có.

Dù làm bằng chất liệu gì thì cặp cũng phải chắc, vì nó phải chứa rất nhiều các tập sách mỗi khi đến lớp. Kèm theo đó, kiểu dáng cặp cũng phải phù hợp. Con trai thì thường đeo cặp có quai sang một bên cho có khí phách, năng động. Con gái mặc áo dài thì ôm cặp trước ngực để có vẻ dịu dàng, thùy mị. Học sinh tiểu học thì đeo cặp ra sau lưng để dễ dàng chạy nhảy, vui đùa. Cùng với màu sắc, hiện đang thịnh hành rất nhiều loại cặp với nhiều màu sắc, hình ảnh đa dạng, phong phú, bắt mắt phù hợp cho từng lứa tuổi.

Mỗi loại cặp có giá cả khác nhau. Với cặp học sinh khoảng từ vài chục đến vài trăm nghìn một chiếc. Cặp của các doanh nhân có giá từ vài trăm đến vài triệu một chiếc.

Chiếc cặp giúp con người chứa đựng và di chuyển thuận lợi những vật dụng mỗi khi đi xa. Cặp là vật để chúng ta đựng sách vở, bút viết mỗi khi đến trường. Cặp cũng là vật để che nắng, che mưa cho sách vở, bảo vệ những vật dụng chứa ở bên trong nó. Cặp cũng là vật đã để lại không biết bao nhiêu kỷ niệm vui, buồn, đồng thời cũng tô lên nét đẹp của tuổi học trò.

Tùy theo từng đối tượng mà con người có những cách sử dụng cặp khác nhau. Cặp học sinh: thường xách trên tay, đeo trên vai hoặc mang trên lưng. Các dây đeo được thiết kế có bộ phận rút siết dây giúp điều chỉnh dây phù hợp với mỗi người. Cặp quai đeo vai thể hiện sự chững chạc, nghiêm túc. Cặp quai mang trên lưng thể hiện sự năng động, người đeo có thể chạy nhảy vui đùa. Cặp đeo ngang hông thể hiện sự dịu dàng, hồn nhiên nữ tính. Các nhà doanh nhân thường sử dụng các loại cặp đắt tiền, thường thì họ xách trên tay, gọn nhẹ và phong cách sang trọng.

Chiếc cặp khi đeo không nên vượt quá 15% trọng lượng cơ thể của mình. Nên xếp những đồ vật nặng nhất vào phần trong của cặp (phần tiếp giáp với lưng). Xếp sách vở và đồ dùng học tập sao cho chúng không bị xô lệch. Chắc chắn rằng những vật dụng để trong cặp đều cần thiết cho các hoạt động trong ngày.

Đối với cặp hai quai, chúng ta không nên đeo lủng lẳng một quai, dễ cong vẹo người. Đối với cặp chỉ có một quai, nên thay đổi vai đeo để tránh cong vẹo người. Khi mua cặp, nên chọn loại quai đeo có độn bông, mút hoặc vải,…

Ngày nay, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như: Miti, Samsonite, Tian Ling, Ling Hao,…… Nhưng cho dù chúng đẹp đến đâu, bền cỡ nào đi chăng nữa, cũng từ từ theo thời gian mà hỏng dần đi nếu như chúng ta không biết cách bảo quản nó.

Muốn sử cặp được bền lâu ta phải tuân thủ các yêu cầu sử dụng hiệu quả do nhà sản xuất khuyến cáo không được để cặp sách gần lửa bởi cặp rất dễ bị cháy hoặc bị biến dạng. Cũng không để cặp nơi ẩm ướt, nơi có nhiều bụi hoặc dưới ánh nắng mặt trời quá lâu ngày. Thường xuyên lau chùi hoặc giặt cặp để giữ độ mới của cặp. Không quăng cặp hay mạnh tay để tránh làm rách cặp hay hư hao.

Cùng với những vật dụng tiện lợi khác, chiếc cặp sách đã trở thành một người bạn trung thành và luôn đồng hành với mỗi con người, đặc biệt là đối với những học sinh. Từ khi chiếc cặp sách ra đời đến nay nó đã thực sự đem lại sự tiện dụng to lớn trong cuộc sống con người.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Xe Đạp 2 Dàn Ý &Amp; 16 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8

TOP 16 bài thuyết minh về chiếc xe đạp

Dàn ý thuyết minh về chiếc xe đạp (2 mẫu)

Bài văn Thuyết minh về chiếc xe đạp (16 mẫu)

Dàn ý thuyết minh về chiếc xe đạp Dàn ý 1

1. Mở bài

Giới thiệu về chiếc xe đạp

2. Thân bài

a. Lịch sử ra đời:

Xe đạp xuất hiện đầu tiên tại Đức, do Baron Karl von Drais phát minh vào năm 1817

Năm 1839, xe hai bánh được gắn với các thiết bị cơ khí đầu tiên ra đời tại Scotland, đó một người làm thợ rèn sáng tạo

Vào năm 1865, hai người anh em nhà Michaux qua quá trình nghiên cứu đã quyết định lắp thêm bàn đạp vào xe cho bánh xe trước.

Qua bao thời gian, xe đạp ngày càng được cải tiến một cách gọn nhẹ hơn, thuận tiện hơn rất nhiều.

b. Cấu tạo:

Khung xe, hai bánh xe, bàn, trục quay, đạp, xích, dĩa, tay lái, phanh, tay lái, yên xe…

Chất liệu: kim loại như thép, sắt, nhôm,…

c. Phân loại:

Phân loại xe đạp theo công dụng: xe đạp thể thao, xe đạp địa hình, xe đạp mini

Phân loại theo nguyên lý hoạt động có xe đạp thường và xe đạp điện

Ngoài ra còn phân loại theo các hãng xe của các nhà sản xuất cho ra đời

d. Ưu điểm và hạn chế:

+ Ưu điểm:

Thứ nhất, xe đạp giá thành không quá cao, người dùng có mức thu nhập thấp cũng có thể sở hữu cho mình một chiếc mà không cần phải quá phân vân hay chần chừ khi mua.

Thứ hai, đây là phương tiện giúp bảo vệ môi trường tốt nhất, những khói bụi của xe máy, xa hơi khiến ta mệt mỏi nhưng đi trên chiếc xe đạp môi trường sẽ được trong lành hơn rất nhiều.

Thứ ba, xe đạp giúp tiện lợi trong việc di chuyển ở những con đường nhỏ, ngõ ngách mà các phương tiện khác không vào được, ít bị tắc đường ở đô thị hơn.

+ Hạn chế:

Giá thành rẻ nên nó không quá bền, dễ bị hỏng hóc khi va chạm với các phương tiện lớn hơn.

Nếu đi đường xa bằng xe đạp thì rất mệt và tốn nhiều thời gian hơn rất nhiều

Khả năng chuyên chở bị giới hạn.

e. Xe đạp trong đời sống:

Phục vụ chiến tranh

Phương tiện đi lại

3. Kết bài

Khẳng định ý nghĩa và vai trò của xe đạp.

Dàn ý 2

I. Mở bài:

Có thể lựa chọn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng cả hai đều phải tập trung giới thiệu được vấn đề mà đề bài yêu cầu: Thuyết minh về chiếc xe đạp.

II. Thân bài:

* Nguồn gốc, sự ra đời của chiếc xe đạp

Năm 1817, chiếc xe đạp đầu tiên được ra đời bởi một nam tước người Đức có tên là Baron von Drais. Ông đã có ý tưởng từ trước đó về một cỗ máy dùng sức người giúp ông đi nhanh hơn, cụ thể là quanh khu vườn hoàng gia. Và chiếc xe đạp đầu tiên ấy có tên là “Cỗ máy chạy bằng chân”, được làm hoàn toàn từ gỗ. Nó đã giúp ông đi được 13km chỉ trong 1 giờ đồng hồ mà thôi. Cách sử dụng chính là người ngồi lên sẽ dùng chân đẩy về phía sau, bánh xe sẽ đẩy xe lên phía trước. Nhưng chiếc xe này khó giữ được thăng bằng và sau này bị chính phủ cấm.

Năm 1860 – 1870, xe đạp ban đầu đã có thêm bàn đạp ở bánh xe trước, bánh trước cũng lớn hơn bánh sau rất nhiều.

Năm 1885, chiếc xe với hai bánh bằng nhau và khá đầy đủ các bộ phận ra đời. Chiếc xe này chính là nguyên mẫu của chiếc xe đạp ngày nay chúng ta vẫn hay sử dụng.

Sau nhiều năm, một số bộ phận được thay đổi để sử dụng tốt hơn và bền hơn. Cho đến ngày nay, chiếc xe đạp hiện đại đã khá hoàn chỉnh và đảm bảo an toàn.

* Hình dáng và các bộ phận của xe đạp

Tay lái: Tay lái của xe đạp bao gồm có phần tay nắm để lái, phanh và chuông. Tay lái xe đạp thường sẽ là dạng hình đường uốn lượn lên xuống, phần tay lái cong hướng vào phía người lái. Phần phanh thì sẽ có phanh trước và phanh sau. Phía tay trái bao giờ cũng là phanh trước, còn tay phải sẽ là phanh sau. Phanh xe là một phát minh vô cùng tuyệt vời giúp chúng ta làm chủ tốc độ trong quá trình sử dụng điều khiển xe.

Bánh xe: Là 2 vòng tròn lớn để xe lăn đi trên đường. Chiếc bánh xe này sẽ có những nan hoa cố định để bánh xe không bị biến dạng. Ở vành bánh xe chính là lốp xe, bên trong lốp là săm xe được bơm khí vào để bánh xe có thể lăn được trên đường.

Bàn đạp: Đây là nơi mà chân chúng ta sẽ dùng để tác dụng lực lên làm bánh xe quay nhờ có hệ thống xích xe. Bàn đạp thường có hình chữ nhật, bằng một phần ba bàn chân của chúng ta.

Yên xe: Thường có hình như đầu một chú chó vậy. Đây là nơi người lái xe sẽ ngồi lên để có thể đạp. Yên xe thường được bọc một lớp bông và da mềm để ngồi cho thoải mái.

Ngoài ra còn có rất nhiều bộ phận khác như đèn, giỏ xe…

* Các loại xe đạp khác nhau

Đầu tiên là loại xe đạp phổ biến mà chúng ta vẫn thường thấy, các bà các mẹ hay đi. Tay lái cong cong, xe khá là cao.

Xe đạp địa hình: Loại xe này có lốp to, có hệ thống giảm xóc rất tốt, phù hợp để đi trên đường đất đá gồ ghề, đường núi. Tuy nhiên xe hơi nặng và đi hơi lâu.

Xe đi đường dài: Dành cho các bạn dùng để khám phá du lịch dài ngày, hay còn gọi là xe đạp tour.

Hybrid bike: Loại xe này phù hợp đi trong thành phố, có tốc độ cao.

Ngoài ra còn một số loại xe đạp khác như xe đạp gấp, xe đạp tối giản… tùy thuộc vào nhu cầu của người tiêu dùng mà có sự lựa chọn khác nhau.

* Công dụng và cách sử dụng xe đạp

– Công dụng:

Trước hết thì xe đạp là công cụ giúp con người di chuyển thô sơ nhất, đơn giản nhất và dễ sử dụng nhất. Gần như chỉ mất vài ngày luyện tập là đã có thể đi xe đạp được.

Trong thời kỳ công nghiệp hóa khiến môi trường ô nhiễm thì sử dụng xe đạp sẽ không thải khí độc ra môi trường như nhiều loại phương tiện khác. Đồng thời dễ di chuyển ở những thành phố lớn vào giờ cao điểm, giao thông ùn tắc…

Đạp xe là một cách để giúp cho cơ thể khỏe mạnh, giảm lượng mỡ thừa, lượng calo thừa, giúp chúng ta có một vóc dáng đẹp.

– Cách sử dụng: Cách dùng rất đơn giản, chỉ cần ngồi lên yên, đặt chân lên bàn đạp và đạp. Xe sẽ di chuyển về phía trước, khi ta cần phanh lại đã có tay phanh…

* Cách bảo quản, giữ gìn xe đạp

Xe đạp khá nhỏ gọn nên chúng ta có thể cất ở một chỗ có diện tích nhỏ, hoặc có thể tháo ra cất đi nếu chúng ta không sử dụng trong thời gian dài.

Cần chú ý tra dầu cho xích thường xuyên, đồng thời kiểm tra độ căng của hai bánh xe để tránh bị hỏng lốp…

III. Kết bài:

Nêu tình cảm, cảm nghĩ của chính mình về công dụng cũng như lịch sử, hình dáng của xe đạp.

Bài văn Thuyết minh về chiếc xe đạp Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 1

Trong cuộc sống ngày nay có rất nhiều những phương tiện giao thông ra đời để phục vụ cho nhu cầu đi lại của con người. Tất cả những phương tiện như xe đạp, xe máy, ô tô, máy bay, tàu hỏa,… đều rất thuận tiện và dễ sử dụng. Trong đó có một phương tiện được con người phát minh ra đầu tiên và vẫn còn được sử dụng đến ngày nay chính là chiếc xe đạp.

Nói đến xe đạp ai cũng biết rằng đây là một phương tiện giao thông hai bánh. Nguyên lý chuyển động của xe đạp là nhờ vào lực đạp bàn chân của người lái và giữ cho xe thăng bằng bởi định luật bảo toàn mo men quán tính. Đây là một phương tiện giao thông hết sức thân thiện với môi trường sinh thái. Ở nhiều nước có thu nhập đầu người thấp thì xe đạp là phương tiện di chuyển được nhiều người sử dụng đi lại hằng ngày.

Ở những nước phát triển như phương Tây thì xe đạp được dùng cho những mục đích dã ngoại hay thể thao. Tại các nước này người dân cũng được khuyến khích sử dụng xe đạp để di chuyển bằng việc có lối đi riêng dành cho xe đạp. Tại các đô thị cổ như Amsterdam ở Châu Âu thì xe đạp chính là phương tiện di chuyển thông dụng nhất.

Xe đạp lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1790 do bá tước Sivrac sáng chế. Ban đầu nó là một cỗ máy bằng gỗ và không hề có bánh xe để điều khiển lái được. Vì vậy lúc này khi muốn chuyển hướng sẽ phải lắc mạnh phần trước của xe. Đến năm 1813 đã có bước ngoặt trong công cuộc phát triển xe đạp.

Nam tước người Đức Karl Friedrich Drais đã cải tiến phần bánh trước để có thể thay đổi hướng xe được. Chiếc xe này bấy giờ được đặt tên là Draisienne và được nhiều người ưa chuộng. Tiếp đó hai anh em Ernest Michaux và Pierre Michaux đã có sáng kiến là lắp thêm pê đan cho bánh trước. Năm 1865 chiếc xe đạp được lắp thêm một chỗ để chân.

Sáng kiến này được mô phỏng theo tay quay của máy quay tay. Tác dụng của pê đan bánh trước là làm cho bánh trước có kích thước lớn hơn bánh sau. Nhờ vậy quãng đường đi trong mỗi vòng đạp sẽ dài hơn. Từ khi phát minh chiếc xe đạp vốn được làm bằng gỗ nhưng đến năm 1869 thì chúng được làm bằng thép.

Đến năm 1879 xe đạp mới được thiết kế phần dây xích để truyền động tới bánh sau bởi ông Lawson. Dần dần theo thời gian chiếc xe đạp đã được cải tiến những chi tiết nhỏ nhặt để trở nên tiện lợi và dễ sử dụng nhất. Đến năm 1920 những chiếc xe đạp được áp dụng các hợp kim nhẹ để giảm trọng lượng của xe. Năm 1973 tại California chính thức chế tạo xe địa hình.

Cấu tạo của xe đạp bao gồm hệ thống chuyên chở, hệ thống chuyển động và hệ thống điều khiển. Đầu tiên phải kể đến hệ thống chuyển động. Bao gồm có khung xe, hai bánh xe, bàn đạp, ổ bi giữa, trục giữa, đĩa ổ líp, dây xích và hai trục. Để sử dụng xe đạp thì khi đi người lái xe ngồi lên yên xe.

Hai tay đưa về phía trước cầm ghi đông, còn chân chuyển động đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động. Lúc này đĩa sẽ chuyển động kéo theo dây xích, khiến cho ô líp và bánh sau quay để tạo lực đẩy cho xe đi về phía trước.

Ghi đông xe có hai tay cầm có thể dễ dàng điều khiển qua trái, phải nhờ ổ bi được gắn ở cổ xe. Điều này giúp cho người lái có thể điều khiển hướng đi theo ý muốn của mình.

Phần ghi đông của xe không chỉ là tay cầm lái mà còn là điểm tựa để người đi giữ thăng bằng. Về phần phanh xe hoạt động theo nguyên lý khi người lái bóp phanh, má phanh sẽ ép vào hai bên vành xe tạo lực ma sát để giảm tốc độ chuyển động của bánh xe. Nhờ vậy có thể khiến xe chạy chậm lại hoặc dừng hẳn.

Ngoài ra còn có hệ thống chuyên chở bao gồm giỏ đựng hàng, yên xe và bộ phận đèo hàng. Ngoài những bộ phận này ra trên xe đạp còn có bộ phận dùng để chắn bùn cho cả bánh sau và bánh trước.

Ở phần xích xe còn có hộp bảo vệ che chắn phần xích xe chuyển động để tránh việc dễ bị dị vật bên ngoài tác động vào. Xe còn được trang bị thêm nhiều những điểm nhỏ nhặt nhưng hết sức cần thiết khác như chuông được lắp ở phía tay cầm, đèn tín hiệu lắp ở sau xe,…

Đối với những quãng đường ngắn như đi trong thành phố nhỏ hay trong làng thì xe đạp là một phương tiện giao thông rất thuận lợi. Vì xe đạp chuyển động bằng sức của con người nên không hề có khí thải gây ô nhiễm môi trường. Người đi xe chỉ cần bỏ ra một chút sức lực để có những quãng đường đi nhẹ nhàng mà êm ái. Không những thế đạp xe còn chính là một phương thức hữu hiệu để rèn luyện cơ thể.

Chiếc xe đạp còn đóng vai trò là một phương tiện hữu ích trong công cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chiếc xe đạp là phương tiện vận chuyển lương thực, vũ khí qua những tuyến đường trường sơn. Góp phần trong công cuộc quét sạch bè lũ xâm lược ra khỏi đất nước ta.

Ngày nay khi đất nước hòa bình, chiếc xe đạp chính là phương tiện đưa những em học sinh đi trên con đường đến với tri thức. Chiếc xe đạp ngày nay vẫn góp một phần đi cùng với những mầm non đất nước và mọi tầng lớp trong xã hội. Dù cho ngày nay có rất nhiều loại phương tiện hiện đại và đi nhanh hơn thế nhưng những chiếc xe đạp vẫn không hề hết được ưa chuộng. Nhất là trong thời đại ô nhiễm môi trường như ngày nay thì việc sử dụng xe đạp là một hành động được khuyến khích. Không chỉ mang đến sức khỏe cho người đi mà nó còn góp phần nào trong việc bảo vệ môi trường.

Chiếc xe đạp còn gắn bó với biết bao thế hệ học sinh, là biểu tượng gắn liền với tà áo dài ngây thơ. Nếu ai đã mang trong mình những kí ức thời học sinh với bao lần cùng bạn bè tíu tít trên những chiếc xe đạp về thì quả thật hạnh phúc. Tiếng tăm xe đạp khi thả dốc như những dòng kí ức trong ta, không bao giờ bị lãng quên.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 2

Từ khi ra đời cho tới nay, chiếc xe đạp cùng từng ngày biến đổi theo sự sáng tạo và trí tưởng tượng của con người, nhưng nhìn chung nó đều gồm các phần chính sau: hệ thống truyền lực, hệ thống chuyển động, hệ thống lái, hệ thống phanh, khung chịu lực và yên xe. Hệ thống truyền lực của tất cả các xe đạp đều gồm bàn đạp, đùi, trục giữa, đĩa, xích là líp. Trong hệ thống chuyển động của xe đạp có bánh xe cả trước và sau bao gồm trục, moay – ơ, nan hoa, vành, săm lốp. Ở đây, lốp xe được đặc biệt quan tâm.

Lốp xe được coi là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong bất cứ một chiếc xe đạp nào bởi nó ảnh hưởng đến sự an toàn cũng như khả năng tăng, giảm tốc độ trên bất kỳ một địa hình nào. Tùy từng kiểu dáng, hãng sản xuất mà lốp xe có kích thước khác nhau nhưng hầu hết các thông số về kích cỡ đều được in nổi trên bề mặt lốp. Bên cạnh kích thước, ta có thể phân biệt lốp xe ở loại có săm hay không săm. Lốp không săm thường rẻ, phù hợp với túi tiền của phần đông mọi người đi xe đạp. Lốp có săm giá thành cao hơn nhưng lại giúp người đi xe có thể giảm trọng lượng và lực cản để tăng tốc nhanh hơn. Độ rộng hẹp của lốp có thể thay đổi nhưng kích thước vành luôn được cố định.

Cùng với hệ thống truyền lực, hệ thống chuyển động là hệ thống phanh: tay lái, cổ phuốc. Hệ thống này giúp con người có thể điều khiển xe đạp một cách nhẹ nhàng, linh hoạt và dễ dàng nhất trong mỗi lần chuyển hướng. Hệ thống phanh lại giúp con người làm chủ được tốc độ để có thể giữ được độ an toàn mỗi khi tham gia điều khiển chiếc xe.

Rất nhiều người chúng ta quan tâm và yêu thích xe đạp, song không phải ai cũng biết hết những điều thú vị về nó. Nhiều bài báo đã giới thiệu chiếc xe đạp dài nhất thế giới tên là “Tandem” gây nhiều tò mò với chiều dài 20 mét và có đến tận 35 người có thể cùng lúc ngồi trên nó. Giải đua xe đạp là một trong những giải đấu thể thao hàng đầu thu hút sự quan tâm của rất nhiều người. Nhưng đa phần ta chỉ thấy các cuộc đua của đàn ông mà phải đến năm 1984, lần đầu tiên phụ nữ được tham gia các môn đua xe đạp tại Thế vận hội.

Với công năng hữu ích cũng như những giá trị thú vị khác, dù trong cuộc sống đã xuất hiện thêm nhiều phương tiện giao thông tiện lợi, nhanh chóng và tiết kiệm sức hơn nhưng xe đạp vẫn đóng một vai trò quan trọng, được sử dụng phổ biến và là lựa chọn hàng đầu của rất nhiều người.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 3

Xe đạp gần gũi quen thuộc và là phương tiện giao thông cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… thuận tiện cho việc di chuyển trong quãng đường ngắn.

Cấu tạo của xe đạp gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, dây xích, đĩa ổ líp,…. Khi đi người ta ngồi lên yên xe, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích, làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay dễ dàng. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe đạp có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước. Một số bộ phận phụ như cắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, bộ phận chắn xích, chuông,…

Xe đạp phương tiện giao thông tiện lợi trên quãng đường ngắn từ dăm cây số đến vài chục cây số như đi trong làng hay trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động bằng sức người nên không gây ô nhiễm môi trường. Người đi xe đạp chỉ cần sử dụng một lực nhỏ nhưng đi được một đoạn đường dài. Đi xe đạp cũng giúp vận động cơ thể tốt cho sức khỏe.

Trong kháng chiến chống Mỹ, chiếc xe đạp cùng lực lượng thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, vũ khí trên tuyến đường Trường Sơn, góp phần quét sạch quân xâm lược Mỹ ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuộc sống hiện đại chiếc xe đạp đang dần bị thay thế nhưng trong tương lai người dân sẽ sử dụng xe đạp lại nhiều để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm, xe đạp vẫn mãi là phương tiện di chuyển an toàn, tiện lợi và dễ sử dụng nhất.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 4

Cuộc sống ngày càng hiện đại hơn. Những cuộc cách mạng khoa học đã từng bước nâng đời sống con người lên tầm cao mới. Một trong những phát minh vĩ đại không thể không nhắc tới của toàn nhân loại là xe đạp. Đó là phương tiện quen thuộc trong giao thông.

Chiếc xe đạp đầu tiên ra mắt năm 1817 bởi Baron von. Chiếc xe này phải dùng đến lực của hai bàn chân chứ không có bánh như ngày nay. Bánh xe ở đằng trước rất to có tác dụng giúp việc dừng lại dễ dàng hơn. Đến năm 1879, một người nước Anh đã sáng tạo ra xích để truyền lực cho bánh sau giúp xe lăn bánh. Năm 1885, J.K.Sartley cải tiến hai bánh xe cùng kích cỡ và thêm khung xe thép. Năm 1887 John Boyd Dunlop tiếp tục cải tiến bánh xe bằng cách thêm ống hơi cho cao su vào bánh để xe chạy êm hơn. Sau đó, người ta còn khiến cho bánh xe có thể tháo lắp linh hoạt. Năm 1920 xe đạp sử dụng hợp kim nhẹ, xe nhẹ đi đáng kể. Qua thời gian, người ta dần cải tiến xe đạp và cho ra nhiều chức năng, lợi thế hơn. Hiện nay xe đạp có mặt trên thị trường với đa dạng mẫu mã, mục đích sử dụng và kích thước như: xe thiết kế cho phụ nữ, đàn ông, trẻ con, xe đua, xe leo núi…

Xe đạp được cấu tạo bởi nhiều bộ phận. Quan trọng là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Khi đi, ta ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động theo kéo dây xích làm ổ líp và bánh sau chuyển động, tạo lực đẩy để xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn và nhiều răng cưa. Ổ líp chuyển động 2 vòng thì đĩa mới chuyển động một vòng. Bánh xe hình tròn, có nhiều thanh sắt được ghép chụm lại ở tâm bánh gọi là vành. Đường kính bánh xe được thiết kế tùy theo đối tượng, mục đích sử dụng nhưng lớn gấp nhiều lần ổ líp. Ban đầu, bánh xe chỉ làm bằng gỗ, khi chạy xe bị xóc. Dần dần người ta dùng cao su, lốp ở ngoài, săm ở trong, khi bơm đủ hơi, có lực đàn hồi, xe giảm xóc.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm xoay đủ 180 độ trái phái, có ổ bi, nhờ vậy xe được lái đi theo ý muốn dễ dàng. Phanh xe gồm tay phanh, dây phanh lắp ở hai đầu tay cầm, điều khiển tốc độ nhanh chậm. Ghi đông vừa là tay lái, vừa giúp người lái giữ thăng bằng.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe và dàn đèo hàng hoặc giỏ đựng. Yên xe lắp ở trên khung xe thường bọc da, là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, kích thước đa dạng. Cũng có chiếc xe lắp bộ phận này ở phía trước, dựa trên trục bánh xe trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn, chuông báo ở tay cầm để xin đường, đèn lắp ở bánh xe. Khi trời tối, đạp xe tạo ra nhiệt, nhiệt chuyển hóa thành điện năng làm đèn sáng có tác dụng soi đường. Xe đạp có thể lắp giỏi hoặc không. Giỏ xe được làm bằng nhiều chất liệu, màu sắc phong phú dùng đựng hoặc tăng vẻ đẹp cho xe.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 5

Xã hội phát triển cũng kéo theo sự phát triển của các loại phương tiện giao thông. Nào là xe máy, ô tô, máy bay, tàu hỏa,… Nhưng gần gũi và thân thương nhất với nhiều lớp thế hệ chính là chiếc xe đạp. Xe đạp đã đi qua tuổi thơ của nhiều người và vẫn luôn hiện hữu trên đường phố ngày nay như một phương tiện không thể thiếu.

Xe đạp xuất hiện đầu tiên tại Paris và được phát minh bởi một nam tước người Đức. Chiếc xe “tổ tiên” này được làm từ gỗ và đã được chỉnh sửa rất nhiều để có thể trở nên tiện dụng như ngày hôm nay. Xe đạp cũng gồm nhiều loại như xe đạp thường, xe đua, xe đổ đèo,… tùy vào mục đích sử dụng của từng loại.

Xe đạp là loại phương tiện giao thông xuất hiện không quá sớm nhưng lại là cơ sở cho sự ra đời của xe máy và ô tô. Xe đạp có hệ thống điều khiển gồm ghi đông, tay lái giúp ta chuyển hướng đi của xe và bộ phanh để dừng xe lại khi đang di chuyển. Phía trước tay lái thường có giỏ xe, rất thuận tiện để đựng đồ khi cần thiết. Vì thế mà các mẹ, các bà hay dùng xe đạp đi chợ để có thể giảm bớt sức lực mang xách. Để mang lại sự thoải mái cho người điều khiển, xe đạp được lắp một yên vừa với một người ngồi, phần phía trên bánh sau được lắp một giá đèo để có thể chở người hoặc vật kích cỡ to đi cùng. Phần giá đèo này thường được làm bằng kim loại, ngồi có thể hơi đau nên người ta hay lắp thêm một đệm êm để được thoải mái hơn.

Xe gồm có hai bánh xe được gắn vào cùng một khung, có bánh trước và bánh sau. Thuở sơ khai, bánh trước thường rất lớn và bánh sau thì nhỏ với pê đan, hay là bàn đạp, gắn ở bánh trước. Và sau nhiều lần cải tiến, sửa chữa để phù hợp hơn thì xe đạp hiện nay vẫn có hai bánh nhưng kích thước hai bánh bằng nhau và bàn đạp được đặt ở khoảng giữa hai bánh, gắn liền với bộ nhông xích. Khi ta dùng lực của chân để làm cho pê đan quay thì vòng xích cũng trượt theo các mắt xích mà quay đều, kéo theo đó là bánh xe cũng quay giúp cho xe di chuyển về phía trước. Phần quan trọng nhất của một xe đạp là phần khung xe. Phần khung này thường được làm bằng kim loại chắc chắn, khác với trước kia làm bằng gỗ, có thể bị mục ruỗng. Ngày nay, với sự hỗ trợ của máy tính thì phần khung này đã được thiết kế tỉ mỉ, có độ chính xác cao hơn và sự ra đời của các vật liệu không gỉ, ít gỉ cũng khiến cho chất lượng sử dụng được lâu bền hơn. Bên cạnh đó thì các loại xe chuyên dụng cũng ra đời và ngày càng thuận tiện hơn cho mọi loại địa hình.

Di chuyển trên phố xá không bao giờ là dễ dàng, và các nhà thiết kế cũng đã tạo ra nhiều bộ phận phụ khác cho xe đạp để việc đi lại được an toàn hơn. Đằng sau và trước xe thường được gắn đèn tín hiệu để báo hiệu cho xe khác khi di chuyển trong đêm tối. Xe cũng được gắn một chuông để báo hiệu mỗi khi chuyển hướng. Vào những ngày trời mưa, đi xe thường bị bắn bùn nước nên xe đạp được trang bị thêm hệ thống chắn bùn để giảm thiểu lượng bùn đất bắn lên xe và người di chuyển.

Không sử dụng động cơ như xe máy, ô tô nên đôi khi, đi xe đạp sẽ tốn nhiều công sức hơn, đặc biệt là với những quãng đường dài. Tuy nhiên, xe đạp lại có rất nhiều công dụng. Thứ nhất là gọn nhẹ, dễ mang, thậm chí là vác chứ không cồng kềnh như xe máy, ô tô. Vì không sử dụng máy nên khi đi trời mưa, ta sẽ không phải lo lắng vì chết máy. Quan trọng hơn, đây là phương tiện giao thông rất an toàn với môi trường. Vì hoàn toàn sử dụng lực chân của con người nên xe không sử dụng các chất như xăng, dầu, những loại tài nguyên đang dần cạn kiệt và khan hiếm. Xe đạp cũng không thải ra lượng khí thải nào khi di chuyển. Và vì trọng lượng nhẹ hơn nhiều so với các loại phương tiện khác nên xe đạp không gây hỏng đường, lún đường và dễ điều khiển hơn. Để xe có tuổi thọ lâu thì người sử dụng cần thường xuyên lau chùi sạch sẽ, kiểm tra xem xe có bị rít không để tra thêm dầu, và cũng cần trang bị cho xe hệ thống phanh chắn để việc di chuyển được an toàn hơn, đặc biệt là khi đi lại ở những con đường dốc và ngoằn ngoèo.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 6

Trong cuộc sống sinh hoạt ngày nay, ngày càng xuất hiện nhiều những loại phương tiện giao thông đi lại thuận tiện, dễ sử dụng và phục vụ được cho những nhu cầu đi lại của con người như: Ô tô, xe máy, máy bay, tàu hỏa… Nhưng tôi vẫn đặc biệt yêu thích loại xe xuất hiện từ rất sớm, gọn nhẹ và có thể phục vụ hữu ích cho việc đi lại, đó chính là chiếc xe đạp-một vận dụng quen thuộc mà cũng hết sức quan trọng.

Xe đạp xuất hiện đầu tiên ở Châu Âu và được nhập vào nước ta vào thế kỉ XX. Xe đạp là phương tiện chuyển động bằng sức người, cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… rất thuận lợi cho việc đi lại. Năm 1790, lần đầu tiên xuất hiện xe đạp bắt đầu với cái célérifère, do bá tước Sivrac sáng chế. Nó là một cái máy bằng gỗ,không có bánh xe để lái; việc chuyển hướng đòi hỏi phải lắc mạnh phần trước của xe. Tuy nhiên vào năm 1849, có thể một thợ cơ khí Đức là Heinrich Fischer đã sáng chế ra pê đan trước hai anh em Michaux. Pêđan ở bánh trước khiến cho bánh trước có kích thước lớn (lớn hơn bánh sau) để tăng quãng đường đi trong mỗi vòng đạp. Cải tiến này đã mang lại tên gọi mới cho thiết bị, bicycle (xe đạp). Tại Việt Nam, xe đạp hiện đang bị thay thế dần bởi xe máy tại các đô thị lớn. Nhưng tại các vùng nông thôn, xe đạp vẫn còn là một phương tiện giao thông được nhiều người chọn lựa.

Xe đạp có cấu tạo gồm: hệ thống chuyển động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống chuyển động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi người ta ngồi lên yên xe, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích, làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc thăng bằng. Bộ phận phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phận phanh mà người đi xe đạp có thể chạy nhanh hay chạy chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên xe dựa trên trục của bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe dựa trên trục bánh trước.

Ngoài các bộ phận như trên, xe đạp còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh xe sau và trước, các bộ phận chắn xích che phía trên xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp ở gần phía tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trên quãng đường ngắn như đi trong làng hay trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động bằng sức người nên không gây ô nhiễm môi trường. Người đi xe đạp chỉ cần sử dụng một lượng nhỏ công sức của mình nhưng đi được một đoạn rất dài. Đi xe đạp cũng là một cách vận động cơ thể rất có ích như tập thể dục, thể thao.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ chiếc xe đạp là phương tiện quan trọng, góp phần vận chuyển lương thực vũ khí lên tuyến đường trường sơn quét sạch bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi thống nhất đất nước. Ngày nay chiếc xe đạp là phương tiện rất thuận tiện cho mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là các em học sinh ngày nay đi lại trên con đường đến với trí thức.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 7

Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển đã cho ra đời nhiều loại phương tiện giúp việc đi lại, di chuyển của con người trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn. Trong số đó, phương tiện gần gũi nhất mà hầu như bất cứ ai cũng có đó là chiếc xe đạp. Xe đạp có nguồn gốc từ châu Âu. Qua nhiều lần cải tiến, chúng ta có được chiếc xe đạp hoàn chỉnh như ngày hôm nay. Xe đạp bắt đầu du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế kỉ 20. Từ đó đến nay, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta.

Cấu tạo của xe đạp gồm 3 phần chính là hệ thống điều khiển, hệ thống chuyển động và hệ thống chuyên chở. Hệ thống điều khiển gồm có ghi đông và phanh xe. Ghi đông có hình dáng đặc biệt giống như số 3. Ghi đông vừa là tay lái vừa giúp chúng ta giữ vững thăng bằng. Nhờ có ghi đông, chúng ta có thể điều khiển xe quẹo trái, quẹo phải theo ý muốn.

Phanh xe có nhiệm vụ làm cho xe đi chậm lại hay dừng hẳn nếu cần thiết. Hệ thống chuyển động gồm có khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ líp, ổ bi, đĩa, bánh xe. Khung xe như xương sống của xe, thường làm bằng kim loại. Khi ngồi trên yên xe, chúng ta đặt hai chân vào bàn đạp, tác dụng một lực vào bàn đạp. Bàn đạp quay làm cho bánh xe di chuyển. Đường kính của đĩa răng cưa lớn hơn ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, giỏ hàng phía trước và giá đèo hàng phía sau. Yên xe là chỗ ngồi của người lái xe, có thể điều khiển tùy vào chiều cao mỗi người. Giỏ hàng và giá đèo hàng có thể chuyên chở một khối lượng từ 3-10 kg. Bên cạnh đó còn có một số bộ phận phụ như hệ thống chắn bùn, chuông xe và đèn tín hiệu đặc biệt hữu ích khi di chuyển vào ban đêm.

Xe đạp là loại phương tiện vô cùng hữu ích trong cuộc sống của chúng ta. Xe đạp sẽ là lựa chọn tối ưu khi ta di chuyển với khoảng cách gần hay những nơi đường chật, hẹp, nhiều ngóc ngách nhỏ. Bên cạnh đó, xe đạp còn thích hợp khi đi dã ngoại, tập thể dục rèn luyện sức khỏe. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra những ích lợi không ngờ khi chúng ta chăm chỉ đi xe đạp.

Đi xe đạp thường xuyên sẽ có hiệu quả trong việc hình thành các cơ, đốt cháy calo giúp cơ thể săn chắc, giúp các khớp khỏe mạnh, cải thiện chức năng tim phổi. Bên cạnh việc rèn luyện thể chất, xe đạp còn giúp cải thiện sức khỏe tâm lý. Đạp xe là một hoạt động giải trí bổ ích mà không mất tiền, tinh thần được thư thái, luôn cảm thấy vui vẻ và sống chan hòa hơn.

Hiện nay, khi ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nóng bỏng toàn cầu, xe đạp càng có ý nghĩa hơn khi góp phần bảo vệ môi trường vì không thải ra khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Các nước phát triển đều khuyến khích người dân đạp xe để giữ cho không khí trong lành hơn.

Trong thời chiến, xe đạp là phương tiện đắc lực giúp chúng ta vận chuyển lương thực, thuốc men, vũ khí, đạn dược cho tiền tuyến xa xôi. Những chiếc xe đạp cùng con người rong ruổi trên khắp các nẻo đường đất nước, từ đồng bằng lên miền núi, vượt qua những cánh rừng rộng lớn, những ngọn núi cao hiểm trở.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 8

Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển công nghệ ngày một tiên tiến hơn, ngày càng có rất nhiều những phương tiện để giúp cho việc đi lại của chúng ta. Đó là xe máy xe đạp ô tô và cả máy bay nữa. Thế nhưng đối với rất nhiều người hiện nay thì một chiếc xe đạp để có thể đi lại cũng không thể thiếu được. Chiếc xe đạp đã trải qua một thời gian khá dài nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị của nó đối với tất cả mọi người.

Vậy chiếc xe đạp được bắt nguồn từ đâu? Xe đạp thì rất nhiều người biết nhưng nếu hỏi nó được bắt nguồn từ đâu thì không mấy ai hiểu rõ. Chiếc xe đạp được phát minh ra ở Châu Âu và được du nhập đến nước ta vào đầu khoảng thế kỉ hai mươi. Xe đạp là phương tiện giao thông chuyển động bằng sức người cấu tạo đơn giản dễ điều khiển và rất thuận lợi cho chúng ta trong việc đi lại. Nó đã gắn liền với con người rất nhiều từ những năm tháng kháng chiến nhưng bây giờ xe đạp không còn phổ biến ở những thành phố lớn nữa. Nó đã bị nhấn chìm bởi các thiết bị hiện đại các phát minh mới hơn so với xe đạp.

Xe đạp là một phương tiện giao thông hai bánh và là một dụng cụ thể thao rất phổ biến. Đa sô xe đạp chuyển động nhờ vào lực đạp của người điều khiển, và giữ thăng bằng nhờ luật bảo toàn mô men quán tính. Xe đạp được coi là phương tiện thân thiện với môi trường sinh thái. Nó được sử dụng phổ biến ở rất nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người thấp được sử dụng là phương tiện giao thông chính. Ở nhiều nước phương tây thì xe đạp không được sử dụng nhiều trong việc đi lại nhưng nó lại được sử dụng cho các hoạt động vui chơi thể thao hay đi dã ngoại. Việc sử dụng xe đạp được khuyến khích ở rất nhiều nước bởi nó rất hợp với môi trường. Phương tiện này cũng rất thích hợp cho các đường phố nhỏ hẹp mà các loại phương tiện khác không thể nào vào được như các phố cổ có kiến trúc xưa kia.

Cấu tạo của xe đạp gồ có hệ thống điều khiển và chuyên chở. Hệ thống xe gồm khung xe bàn đạp trục ở giữa dây xích đĩa ổ líp hai trục ổ bi và hai bánh trước sao. Khi đi người ta ngồi lên trên yên xe tay cầm ghi đông chân đạp bàn đạp cho trục xe chuyển động đĩa chuyển động kéo theo dây xích cũng chuyển động làm quay ổ líp và bánh sau tạo lực cho xe chuyển động đẩy xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn so với ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi so với răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng rồi thì ổ líp đã chuyển động được hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động là bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 750mm, gấp mười lần so với đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay được một vòng thì bánh xe lăn được một quãng đường dài. Ổ líp sẽ quay làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn so với ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi so với răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng rồi thì ổ líp đã chuyển động được hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động là bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 750mm, gấp mười lần so với đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay được một vòng thì bánh xe lăn được một quãng đường dài. Ổ líp sẽ quay làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm gi đông có hai tay cầm có thể quay qua trái và qua phải dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi nhằm lái cho bánh trước đi theo ý muốn. Gi đông vừa là tay lái vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh gồm thắng phanh bóp phanh càng mạnh thì sức ép xuống càng nhanh khiến cho má phanh ép vào hai bên bánh xe tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chuyển động chậm lại hoặc đứng hẳn khi cần thiết.

Nhờ có bộ phận phanh mà người đi xe có thể đi nhanh hoặc đi chậm khi cần thiết tùy vào từng trường hợp. Hệ thống chuyên chở gồm yên xe bộ phận đèo hàng hoặc chở giỏ hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe tùy vào từng chiều cao của mỗi người mà yên xe được chỉnh cao thấp khác nhau. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên dựa trên trục bánh xe sau có thể chở được cả hàng tạ, giỏ đựng hàng được gắn thêm phía đầu xe dựa trên trục bánh trước.

Hiện nay ở các thành phố lớn số lượng xe máy quá nhiều khiến cho ách tắc giao thông lại gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển rộng rãi thì xe đạp vẫn là một phương tiện cá nhân không thể thiếu vừa sạch sẽ lại tiện lợi.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 9

Một thời xe đạp là phương tiện giao thông phần lớn của người Việt Nam. Xe đạp là phương tiện giản tiện chuyển động nhờ sức người.

Xe đạp do nhiều bộ phận tạo thành, chủ yếu là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Người đi xe đạp ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo dây xích làm chuyển động ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn 2 lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn 2 vòng. ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp, như vậy ổ líp quay một vòng thì bánh xe đã lăn được một quãng dài. ổ líp quay nhanh sẽ làm xe chạy nhanh.

Lúc đầu bánh xe làm bằng gỗ, khi chạy sẽ xóc rất dữ. Ngày nay người ta làm bánh xe bằng cao su, lốp ở ngoài, săm ở trong, khi bơm đủ hơi, có lực đàn hồi, xe chạy ít xóc hẳn.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm xoay được qua cổ xe có ổ bi nhằm lái cho bánh xe trước đi theo phương hướng mong muốn. Hai cái phanh lắp hai đầu tay cầm, điều khiển cho tốc độ xe khi đang chạy nhanh có thể chậm lại. Hai tay cầm ở ghi đông vừa là tay lái, vừa là chỗ nắm để giữ cho người đi xe ngồi vững trên xe.

Bộ phanh gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh làm cho má phanh ép vào hai bên vành xe tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe chạy chậm lại hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe có thể dừng xe theo ý muốn.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe và giá đèo hàng hoặc giỏ đựng. Yên xe lắp ở trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được khá nhiều hàng. Có khi người ta lại lắp bộ phận chở hàng ở phía trước, dựa trên trục bánh xe trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, có đèn xe lấy nguồn điện từ đinamô lắp ở trước càng xe, và đèn tín hiệu lắp ở phía sau, có thể có chuông lắp gần chỗ tay cầm.Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động không gây ô nhiễm. Đi xe đạp là một cách vận động cơ thể như một hoạt động thể thao.

Hiện nay xe máy quá nhiều, có cơ lấn lướt xe đạp, vừa gây ách tắc giao thông, vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển, xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch sẽ vừa tiện lợi.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 10

Nếu có ai hỏi tôi, tổ tiên của tôi có từ khi nào thì tôi sẽ kiêu hãnh trả lời: “Xe đạp đã đi qua gần hai thế kỉ”. Sử sách ghi lại rằng, cách chúng ta từ rất lâu ở xứ sở Ai Cập cổ đại, người ta đã chứng minh được nơi đây đã xuất hiện một loại xe hai bánh chuyển động bằng cách dùng hai chân để đạp. Tuy nhiên, phải đến năm 1817 thì thì các loại mẫu xe đạp mới được sử dụng rộng rãi.

Mọi người đừng nhìn bề ngoài mà tưởng tôi có cấu trúc đơn giản. Thực ra bên trong tôi lại có khá nhiều bộ phận phức tạp. Cấu tạo của tôi nói riêng và anh chị em tôi nói chung đều gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.

Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi, người ta ngồi lên yên xe của tôi, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích (sên), làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650 mm hay 700 mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy, ổ líp quay một vòng thì bánh xe lăn được một quãng dài. Ổ líp quay sẽ làm cho tôi chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng (gác-ba-ga) lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, tôi còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước (gác-đờ-bu), có bộ phận chắn xích che phía trên sợi dây xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp gần chỗ tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Tôi rất tự hào khi mình là loại giao thông thuận tiện trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Nếu sử dụng tôi sẽ không gây ô nhiễm môi trường do chuyển động bằng sức người. Ngoài ra, tôi cũng giúp người đi rèn luyện thể thao, nâng cao sức khỏe. Vì đi xe đạp sẽ giúp tăng cường sức khỏe tim mạch, giúp cho cơ bắp săn chắc, làm cho vòng eo thêm thon gọn, đồng thời đi xe đạp ít nhất 20 phút mỗi ngày còn tăng tuổi thọ, giảm stress và tăng sức mạnh hệ xương và những kĩ năng phối hợp.

Không chỉ vậy, tôi còn là một người bạn thân thiết với những ai đã từng đi qua quãng đời học sinh. Với các cô cậu học trò, dù xa trường đã bao nhiêu năm rồi thì tôi luôn tin chắc rằng hình ảnh của tôi vẫn in đậm trong tâm trí họ, chẳng thể nào phôi phai. Những trưa hè đổ lửa, những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng hồng hay chở mùa hè của người con trai 18 tuổi thưở nào để khắc nỗi nhớ lên cây.

Nhớ ngày hai buổi đến trường, tôi chở những niềm vui và nỗi buồn của một thời ngây ngô, dễ thương để khi chia xa rồi “ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu…”. Những chiều trốn học, tôi lại cùng họ túm năm tụm ba đàn đúm với những trò chơi nhất quỷ nhì ma để đến tận bây giờ tôi chẳng thể nào quên những ngày tháng của “tuổi thơ dữ dội”. Khi mưa tôi cũng vội vã cùng các cô cậu học trò, khi nắng tôi lại thong dong cùng những người bạn ấy.

Xã hội càng ngày phát triển, công nghệ ngày càng tiên tiến, tôi nghĩ những phương tiện giao thông hiện đại sẽ thuận lợi hơn đối với mọi người. Nhưng tôi vẫn tự hào khi mình là một người bạn đồng hành, một người bạn biết cảm thông và chia sẻ. Tôi sẽ luôn đi cùng con người theo những nhịp đi của cuộc sống để đưa mọi người đến với thành công.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 11

Phương tiện giao thông có vai trò rất lớn trong đời sống. Hiện nay, nhiều phương tiện mới ra đời thuận lợi cho việc đi lại, chuyên chở của con người như ô tô, máy bay, xe điện, thuyền bè và không thể không kể đến xe đạp, một trong những phương tiện ra đời từ rất sớm, phục vụ đắc lực cho nhu cầu đi lại của con người.

Xe đạp xuất hiện đầu tiên tại Đức, do Baron Karl von Drais phát minh vào năm 1817. Mô hình xe đạp này được làm từ gỗ, gắn với hai bánh xe và được di chuyển bằng cách người lái dùng hai chân để đẩy. Năm 1839, xe hai bánh được gắn với các thiết bị cơ khí đầu tiên ra đời tại Scotland, đó một người làm thợ rèn sáng tạo. Vào năm 1865, hai người anh em nhà Michaux quá quá trình nghiên cứu đã quyết định lắp thêm bàn đạp vào xe cho bánh xe trước. Qua bao thời gian , xe đạp ngày càng được cải tiến một cách gọn nhẹ hơn, thuận tiện hơn rất nhiều. Từ đó ,nhiều loại xe đạp khác nhau cũng được ra đời.

Những chiếc xe đạp mà thời kỳ đầu còn người mới phát minh chỉ có cấu tạo rất đơn giản, nó gồm khung xe và hai bánh xe gắn kết vào khung. Chất liệu để làm ra chúng chủ yếu là từ gỗ. Một chiếc xe đạp hiện nay được cấu tạo bởi khung xe ,hai bánh xe, bàn, trục quay, đạp, xích, dĩa , tay lái, phanh, tay lái, yên xe…những bộ phận này được làm từ kim loại là chính. Xe đạp chuyển động khi người điều khiển tác động lực trên bàn đạp và được giữ thăng bằng của xe khi đi chuyển.

Hiện nay, xe đạp được sử dụng vô cùng rộng rãi. Tính trên toàn thế giới phải có tới hàng tỷ chiếc xe đạp được sử dụng. Có thể phân loại xe đạp theo công dụng: xe đạp thể thao, xe đạp địa hình, xe đạp mini. Phân loại theo nguyên lý hoạt động có xe đạp thường và xe đạp điện. Ngoài ra còn phân loại theo các hãng xe của các nhà sản xuất cho ra đời. Do nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng nên hiện nay có nhiều mẫu xe đạp được sản xuất với mẫu mã vô cùng đẹp mắt nên ở mọi lứa tuổi đều có thể chọn cho mình một chiếc xe ưng ý.

Việc sử dụng xe đạp với số lượng lớn đã cho thấy tính tiện ích của loại xe này. Thứ nhất, xe đạp giá thành không quá cao, người dùng có mức thu nhập thấp cũng có thể sở hữu cho mình một chiếc mà không cần phải quá phân vân hay chần chừ khi mua. Thứ hai, đây là phương tiện giúp bảo vệ môi trường tốt nhất, những khói bụi của xe máy, xa hơi khiến ta mệt mỏi nhưng đi trên chiếc xe đạp môi trường sẽ được trong lành hơn rất nhiều. Thứ ba, xe đạp giúp tiện lợi trong việc di chuyển ở những con đường nhỏ, ngõ ngách mà các phương tiện khác không vào được, ít bị tắc đường ở đô thị hơn, nhờ vậy mà những vụ tai nạn sẽ giảm hơn nếu mọi người chọn xe đạp làm phương tiện. Ngoài ra, xe đạp còn giúp cho con người rèn luyện được sức khoẻ dẻo dai khi luyện tập. Tuy nhiên, bên cạnh đó, xe đạp còn có những khuyết điểm khó có thể khắc phục. Giá thành rẻ nên nó không quá bền, dễ bị hỏng hóc khi va chạm với các phương tiện lớn hơn. Nếu đi đường xa bằng xe đạp thì rất mệt và tốn nhiều thời gian hơn rất nhiều, xe cũng không chở được quá nhiều đồ như xe máy, hay ô tô. Tuy vậy, xe đạp vẫn là lựa chọn rất hữu ích cho đời sống của con người.

Trong chiến tranh, xe đạp là phương tiện vận tải lương thực tiếp tế cho quân đội. Xe cùng người vào ra chiến trận, mang vũ khí, đạn dược, cũng là phương tiện giao liên kỳ diệu góp phần vào thắng lợi của bộ đội ta. Khi hoà bình, xe cùng người mẹ, người cô đưa hàng rong quá mọi nẻo đường để bán, cùng những cô cậu học sinh ngày ngày đến trường trong tà áo trắng xinh. Xe đạp đã gắn bó với con người thật bình dị và tự nhiên như thế. Dù trong lao động, trong chiến đấu, trong hôm nay và cả những mai sau, xe vẫn mãi song hành cùng người trên những con đường yêu thương.

Muốn bền lâu thì phải giữ gìn, đó là điều tất nhiên. Và xe đạp cũng thế, cần phải được “quan tâm”, không để ngoài mưa, ngoài nắng ngày này qua ngày khác, xe dễ bị hỏng hóc hoặc nổ lốp. Khi đi quá đoạn đường trơn cần đi chậm rãi, hạn chế để xe bị ngã. Đồng thời phải thường xuyên lau chùi, thêm luyn, nhớt cho xe để bảo vệ xe được lâu hơn.

Xe đạp cũng được đi vào nhiều trang thơ, lời văn, khúc hát của nghệ thuật Việt Nam. Tôi còn nhớ câu hát thiết tha trong bài họa phượng: “Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng. Em chở mùa hè của tôi đi đâu..”

Hay trong lời thơ chân thành:

Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều phương tiện hiện đại mới ra đời nhưng xe đạp vẫn có chỗ đứng riêng trong lòng người sử dụng. Hy vọng rằng tôi, các bạn và tất cả mọi người sẽ chăm đi xe đạp hơn để bảo vệ môi trường xanh đẹp.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 12

Chiếc xe đạp được phát minh ra ở Châu Âu và được nhập vào nước ta khoảng đầu thế kỉ XX. Xe đạp là phương tiện giao thông chuyển động bằng sức người, cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… rất thuận lợi cho việc đi lại.

Cấu tạo của xe đạp gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.

Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi, người ta ngồi lên yên xe, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích (sên), làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy, ổ líp quay một vòng thì bánh xe lăn được một quãng dài. Ổ líp quay sẽ làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe đạp có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng (gác-ba-ga) lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước (gác-đờ-bu), có bộ phận chắn xích che phía trên sợi dây xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp gần chỗ tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Vào cuối thế kỉ XIX, bánh xe đạp còn làm bằng gỗ, nẹp sắt, do đó đi rất xóc. Người đầu tiên sáng chế ra chiếc lốp xe bằng cao su là Đân-lớp, một hộc sinh nước Anh. Từ một lần suýt ngã vì vấp phải ống cao su dẫn nước, Đân-lớp đã nghĩ ra cách cuộn ống cao su cho vừa vành bánh xe rồi bơm hơi căng lên thay cho gỗ và nẹp sắt. Phát minh của Đân-lớp được đăng kí chính thức vào năm 1880. Về sau, lốp xe đạp có thêm chiếc săm bơm căng hơi nằm bên trong có lực đàn hồi, xe chạy êm hẳn.

Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trên quãng đường ngắn từ dăm cây số đến vài chục cây số như đi trong làng hay trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động bằng sức người nên không gây ô nhiễm môi trường. Người đi xe đạp chỉ cần sử dụng một lực rất nhỏ nhưng đi được một đoạn đường dài. Đi xe đạp cũng là một cách vận động cơ thể có ích như hoạt động thể thao, thể dục.

Trong kháng chiến 9 năm chống Pháp, chiếc xe đạp đã cùng dân công thồ hàng phục vụ cho bộ đội đánh thắng trận Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Trong kháng chiến chống Mĩ, chiếc xe đạp lại cùng lực lượng thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, vũ khí trên tuyến đường Trường Sơn, góp phần quét sạch quân xâm lược Mĩ ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày nay, chiếc xe đạp là phương tiện đi lại rất thuận lợi cho nhiều tầng lớp trong xã hội, nhất là các bạn học sinh ngày ngày đến trường học tập.

Hiện nay, ở các thành phố lớn, số lượng xe máy quá nhiều, vừa gây ách tắc giao thông vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai, khi phương tiện giao thông công cộng phát triển rộng rãi thì xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch sẽ vừa tiện lợi.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 13

Trong cuộc sống hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển dẫn đến sự xuất hiện của càng nhiều các phương tiện giao thông thuận tiện, dễ sử dụng. Thế nhưng hình ảnh chiếc xe đạp nhỏ gọn, quen thuộc vẫn luôn hiện hữu như một phương tiện không thể thiếu.

Xe đạp xuất hiện đầu tiên ở châu Âu và du nhập vào Việt Nam vào thế kỉ XX. Chiếc xe đạp đầu tiên được sáng chế ra bởi một công tước người Đức với nguyên liệu bằng gỗ và qua nhiều giai đoạn phát triển và hoàn thiện đã trở thành chiếc xe đạp gọn nhẹ như hiện nay. Tại Việt Nam, xe đạp đang dần bị thay thế bằng các loại phương tiện khác nhưng ở các miền quê hình ảnh xe đạp vẫn còn xuất hiện rất nhiều.

Xe đạp gồm có ba hệ thống chính: hệ thống chuyển động, hệ thống chuyên chở và hệ thống điều khiển. Hệ thống chuyển động gồm có khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, đĩa olip, hai trục, và hai bánh. Khi người ta ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp tạo lực cho trục xe chuyển động kéo theo sự chuyển động của các bộ phận còn lại và làm quay bánh xe giúp cho xe di chuyển. Hệ thống chuyên chở gồm có yên xe đủ chỗ cho một người ngồi trong lúc đạp xe, giỏ xe để đựng đồ, gác-ba-ga sau yên xe để cho một người nữa ngồi khi đi chung. Hệ thống điều khiển có ghi đông với hai tay cầm giúp cho người điều khiển có thể điều chỉnh hướng đi của xe một cách dễ dàng và nhẹ nhàng. Đi kèm với ghi đông còn có hai phanh trước và sau có thể giúp người lái dừng lại đột ngột. Một số loại xe sẽ lắp thêm hệ thống đi-na-mô để chiếu sáng khi di chuyển hoặc khóa xe ở bánh.

Tuy với thiết kế gọn nhẹ nhưng xe đạp lại mang tới rất nhiều lợi ích. Xe đạp nhỏ vì vậy có thể đi trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chỉ với một chút sức lực bạn có thể di chuyển đoạn đường khá dài, không chỉ vậy đi xe đạp còn là một cách để tập thể dục, rèn luyện sức khỏe. Ngoài ra, vì không có bộ phận máy móc, bạn sẽ không cảm thấy lo lắng về hiện tượng xe chết máy mỗi khi trời mưa. Khuyết điểm duy nhất đó là khi xe tuột xích thì khá dễ để lắp lại với một chiếc tua vít.Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà các phương tiện khác như xe máy, ô tô,… thải ra môi trường một lượng lớn khói bụi gây ra ô nhiễm không khí nghiêm trọng thì xe đạp là một sự lựa chọn hoàn hảo để bạn góp phần bảo vệ môi trường. Hơn thế nữa với khoa học phát triển hiện nay thì càng xuất hiện nhiều các mẫu mã xe đạp mới như xe đua, xe địa hình,.. hứa hẹn sẽ cho bạn những trải nghiệm thú vị

Tuy cấu tạo khá đơn giản nhưng chúng ta cũng cần biết cách chăm sóc cho người bạn đồng hành này. Người dùng nên thường xuyên lau rửa sạch sẽ để chiếc xe có một vẻ ngoài thật đẹp, tra dầu định kì cho xe để không bị rít, đặc biệt chú ý tới hệ thống phanh, tránh tình trạng phanh không ăn hoặc đứt phanh sẽ gây nên nguy hiểm rất lớn cho người sử dụng đặc biệt ở những con đường dốc, ngoằn ngoèo, lắm phương tiện qua lại.

Chiếc xe đạp đã gắn bó với bao thế hệ học sinh, hiện lên với bóng trắng thướt tha của tà áo dài hay kiên cường kề vai cùng các chiến sĩ chở đồ tiếp tuyến cho các chiến sĩ nơi mặt trận trong những cuộc chiến lịch sử của dân tộc. Chiếc xe đạp đã trở thành một phần kí ức của bao người dân Việt Nam.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 14

Trong bất kỳ chúng ta, không ai là không biết đến chiếc xe đạp. Xe đạp từ lâu đã trở thành một đồ dùng, hay nói chính xác hơn là một phương tiện giao thông đi lại vô cùng phổ biến, thông dụng và quen thuộc đối với mỗi chúng ta.

Trước đây người ta cho rằng xe đạp được sáng chế bởi bá tước Sivrac vào năm 1790, với cái tên Célérifère (célérité có nghĩa là nhanh). Nó là một cái máy bằng gỗ, không có bánh xe để lái; việc chuyển hướng đòi hỏi phải lắc mạnh phần trước của xe. Ngày nay các sử gia về kỹ thuật cho rằng không có chiếc xe Célérifère cũng như bá tước Sivrac, đó chỉ là những hình ảnh sai vì xe đạp không tay lái rất khó điều khiển. Célérifère đồ chơi thì có thể có, nhưng không thể chạy nó trong thực tiễn. Năm 1817, nam tước người Đức là Baron Karl von Drais đã phát minh ra chiếc xe mang tên ông gọi là Draisienne (xe của Drais) được xem là tổ tiên của xe đạp. Drais đã giới thiệu mô hình xe này cho công chúng tại Mannheim vào mùa hè 1817 và tại Paris năm 1818. Người lái ngồi dạng chân trên một khung gỗ được hỗ trợ bởi hai bánh xe và đẩy chiếc xe bằng hai chân của mình trong khi chỉnh hướng bằng bánh xe phía trước.

Xe đạp là một phương tiện giao thông có hai bánh, dùng bàn đạp để điều khiển, gồm hai bánh xe được gắn vào cùng một khung xe, bánh này sau bánh kia. Đa số xe đạp chuyển động nhờ lực đạp của người điều khiển, và giữ thăng bằng nhờ định luật bảo toàn mômen quán tính. Xe đạp đã được đưa vào sử dụng vào thế kỷ 19 ở châu Âu. Cho đến năm 2003, xe đạp có số lượng hơn một tỷ trên toàn thế giới, gấp đôi so với xe ô tô. Xe đạp là phương tiện chính của giao thông ở nhiều khu vực. Xe đạp cũng là một hình thức phổ biến cho giải trí, và đã được điều chỉnh để sử dụng như đồ chơi trẻ em, thiết bị trong phòng tập thể dục, các ứng dụng trong quân đội và cảnh sát, dịch vụ chuyển phát nhanh, và đua xe đạp. Hình dạng cơ bản và cấu hình của một xe đạp đứng, hoặc xe đạp an toàn, đã thay đổi rất ít kể từ khi mô hình đầu tiên của xe đạp được phát triển vào khoảng năm 1885. Tuy nhiên, nhiều chi tiết đã được cải thiện, đặc biệt là kể từ sự ra đời của vật liệu hiện đại và thiết kế được máy tính hỗ trợ (CAD). Những hỗ trợ này cho phép gia tăng số lượng các thiết kế chuyên dụng cho nhiều loại xe đạp.

Advertisement

Xe đạp được coi là phương tiện giao thông thân thiện với môi trường sinh thái. Nó được sử dụng phổ biến ở nhiều nước có thu nhập đầu người thấp, như các nước châu Phi, Việt Nam, Trung Quốc, như phương tiện đi lại hằng ngày chính. Ở nhiều nước phương Tây, xe đạp được dùng nhiều hơn cho các hoạt động thể thao hay dã ngoại. Việc sử dụng xe đạp cho giao thông thường nhật cũng được khuyến khích tại các nước này với đường dành riêng cho xe đạp. Phương tiện này cũng thích hợp cho các đường phố nhỏ hẹp của các đô thị cổ, như Amsterdam ở châu Âu. Phát minh ra xe đạp đã có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, cả về văn hóa và việc thúc đẩy công nghiệp hiện đại hóa. Một số thành phần cuối cùng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của ô tô đầu tiên được phát minh để sử dụng trong xe đạp, bao gồm vòng bi, bánh hơi, đĩa xích điều khiển, và vành bánh xe được cân chỉnh bằng hàng loạt tăm kim loại.

Như vậy, xe đạp từ lâu đã trở thành một phương tiện giao thông đi lại vô cùng hữu ích và quen thuộc đối với mỗi người chúng ta. Cuộc sống chúng ta không thể nào chiếc xe đạp, dẫu cho bây giờ xã hội có nhiều phương tiện giao thông hiện đại hơn như: xe đạp điện, xe máy điện, xe máy….

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 15

Xe đạp là một phương tiện di chuyển phổ biến và quan trọng trong đời sống hàng ngày của con người trên tất cả các nước thế giới. Giờ đây nó không đơn thuần là giúp chúng ta trong việc đi lại dễ dàng mà xe đạp còn rất nhiều hữu ích như là phương tiện thể dục, phương tiện thể thao, bảo vệ môi trường.

Xe đạp (tên tiếng anh là Bike) là một loại hình phương tiện đi lại với thiết kế 2 bánh xe (trước và sau) được gắn cùng vào hệ thống khung, bánh sau nối tiếp bánh trước với khoảng cách nhất định và dùng bàn đạp để có thể di chuyển thông qua chuyển động của xích. Xe đạp có cấu tạo khá đơn giản, dễ điều khiến, nó chuyển động được là bởi lực đạp trực tiếp từ người ngồi trên xe và giữ cân bằng khi di chuyển nhờ vật lý học theo định luật bảo toàn Momen quán tính.

Năm 1790, bá tước tên Sivrac đã nghĩ ra mô hình chiếc xe đạp đầu tiên tên là Célérifère. Nhưng nó không thể hoạt động. Đến năm 1870, người Anh J. Starley chế ra xe đạp bằng thép nguyên chiếc đầu tiên, với các bánh xe có căm xe căng và có cao su xung quanh niền xe. Nhưng xe này chỉ dùng bánh xe trước để lái và đạp, còn bánh sau chỉ để mang trọng lượng cơ thể.

Chiếc xe đạp hiện đại được chế tạo vào năm 1879 bởi Lawson. Năm 1880, xe đạp hai bánh mang tên biciclette, bicycle (bi=2, cycle = bánh xe) – chính thức được ra đời, đánh dấu thời kì phát triển hưng thịnh của phương tiện này.

Sau rất nhiều cải tiến, chiếc xe đạp được trang bị nhiều bộ phận tiện lợi hơn, giúp tiết kiệm sức lực, tốc độ nhanh hơn, xe bền hơn và an toàn hơn. Với trên 200 năm hình thành và phát triển, xe đạp được cải biến hơn nhiều và được xem như một phương tiện chuyên chở không gây ô nhiễm môi trường được sử dụng phổ biến, để bớt ô nhiễm và có sức khỏe hơn.

Đầu tiên phải kể đến là hệ thống truyền lực gồm: Bàn đạp (pê-đan), đùi, trục giữa, đĩa, xích, líp. Trong đó, líp gồm hai bộ phận chính là: vành và cốt. Vành líp có răng ở phía ngoài và trong. Răng ngoài để ăn khớp với xích, răng trong có dạng răng cưa nghiêng về một phía ăn khớp với cá líp là một lưỡi thép nhỏ. Cốt líp có hai rãnh để đặt hai cá líp, trong mỗi rãnh có một lò xo nhỏ hoặc một cái lẫy làm bằng sợi thép nhỏ có tính đàn hồi. Cốt líp lắp chặt với moay-ơ bánh sau bằng ren. Bình thường, đầu nhọn của cá líp quay theo chiều kim đồng hồ nhờ bộ phận truyền động xích. Trong khi đó, lò xo đẩy cá líp lên làm răng trong vành líp mắc vào cá líp kéo cốt líp quay theo cùng chiều với vành của líp, làm bánh xe quay theo.

Khi đang đi xe, nếu ta không đạp bàn đạp, vành líp không quay, theo quán tính bánh xe vẫn lăn về phía trước, cốt líp cùng cá líp quay theo chiều kim đồng hồ, khi quay cá líp trượt trên răng trong của vành líp, ép lò xo xuống, đồng thời phát ra tiếng kêu “tạch tạch”. Khi xe đang đứng yên, nếu ta quay đùi đĩa theo chiều ngược chiều kim đồng hồ làm răng trong trượt lên cá líp nên cốt líp không quay được, do đó bánh xe không quay. Bởi vậy líp được gọi là khớp quay một chiều.

Hệ thống chuyển động bao gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, xích, đĩa, ổ líp, 2 trục, ổ bi và các bánh xe. Trong đó, trục, moay-ơ, nan hoa, vành bánh xe được làm bằng thép. Moay-ơ cũng liên kết với vành bánh xe tạo thành nan hoa. Săm và lốp thì được chế tạo từ xoa su tổng hợp để tăng độ êm cho xe khi chuyển động. Khi có tác động lực từ chân người đạp, lực được truyền đến bàn đạp và đùi xe rồi từ trục giữa chuyển đến bộ phận dây xích làm quay hệ thống ổ líp và bánh sau, tạo nên lực đẩy nhất định giúp cho chiếc xe đạp chuyển động về trước.

Hệ thống điều khiển gồm có ghi đông cấu tạo từ 2 tay cầm, bộ phận này giúp người sử dụng có thể điều khiển xe đạp chuyển hướng qua trái, qua phải dễ dàng theo chuyển động nhờ vào ổ bi nằm ở giữa trục cổ xe. Phần ghi đông sẽ vừa là tay lái vừa là chỗ để chúng ta nắm giữ khi lái xe. Hệ thống lái giúp người đi xe điều khiển xe một cách dễ dàng, thuận lợi, không tốn nhiều sức lực. Trong đó, việc xe có chuyển hướng được hay không là phụ thuộc vào hướng chuyển của bánh xe. Ngoài ra, hai cái phanh ở tay lái giúp điều khiển tốc độ của xe một cách tiện lợi.

Hệ thống phanh giảm tốc an toàn của xe đạp được tạo ra giúp người sử dụng làm chủ vận tốc di chuyển, đồng thời đảm bảo an toàn giao thông, tránh gây tai nạn. Trong đó, có hai loại phanh xe đạp chính là phanh đĩa và phanh niềng. Tuy nhiên, hai loại phanh này đều có chung các bộ phận chính là: tay phanh, dây phanh, cụm má phanh. Khi xe đạp đang di chuyển ở tốc độ cao, xuống dốc hay gặp vấn đề cần phải dừng gấp thì người lái xe sẽ bóp tay phanh lại và ngay lập tức má phanh ở 2 bên sẽ ép vào vành bánh xe tạo một lực ma sát mạnh và sẽ làm giảm tốc độ hoặc dừng hẳn xe lại.

Bộ khung chịu lực là bộ phận kết nối và cố định các bộ phận khác trên xe. Trước kia, khung chịu lực của xe đạp được làm bằng gỗ. Do đó, khung chịu lực của xe lúc bấy giờ không được vững chắc, tuổi thọ lại không cao, dễ bị gãy bất cứ lúc nào. Nhưng sau khi được cải tiến, khung xe đạp đã được làm từ tạo được độ cứng, độ bền, đáp ứng được nhu cầu của người đi . Ngoài ra, khung xe cũng đảm nhận việc liên kết các bộ phận của xe thành một khối nhất định.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, giỏ xe, gác ba ga (bộ phận đèo hàng). Phần yên gắn ở trục đứng giữa xe, để người điều khiển ngồi lên. Yên xe đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp người đi xe đạp có một chỗ ngồi thoải mái với tư thế tốt nhất. Gác ba ga hay bộ phận đèo hàng được lắp đặt ở phía sau yên trên trục bánh sau. Giỏ đồ được gắn phía trên đầu xe phía trên bánh trước.

Ngoài ra ở một số dòng xe đạp thể thao hay xe đạp thường còn được gắn thêm hệ thống chắn bùn trước sau để tránh trời mưa, hay gắn thêm hệ thống đèn chiếu sáng lấy từ nguồn điện đi-na-mô được gắn ở phía trước càng xe, chuông xe được lắp ở cạnh tay cầm trên phần ghi đông, hộp xích, khóa chống trộm…và nhiều phụ kiện khác kèm theo.

Xe đạp là phương tiện di chuyển tiện lợi, hoàn toàn do sức người. Ngày nay, người ta sử dụng những vật liệu bền bỉ trong sản xuất xe đạp, tuy nhiên, khi sử dụng cũng phải hết sức giữ gìn và bảo quản xe đạp để sử dụng an toàn và bền lâu.

Trước hết, không chuyển chở quá trọng lượng quy định của xe đạp bởi có thể làm hư hỏng các bộ phận của xe, đặc biệt là bộ phận khung chịu lực, vành và nan hoa. Không nên đi xe ở những địa hình quá gập ghềnh, nhiều vật cản, gai nhọn, đá cuội sắc bén sẽ làm hỏng lốp săm.

Thường xuyên kiểm tra phanh thắng để đảm bảo an toàn khi di chuyển. Thường xuyên tra dầu mỡ để các bộ phận ít bào mòn và di chuyển tốt hơn.

Khi không sử dụng, cần bảo quản xe đạp ở nơi thoáng mát, tránh để ngoài mưa nắng, hay nơi gần nguồn nhiệt. Không dùng lực tác động quá mạnh vào các bộ phận theo hướng nghịch dễ làm hỏng xe. Khi xe đạp không còn giá trị sử dụng, nên bán để phục hồi tái sử dụng hoặc tái chế để bảo vệ môi trường.

Xe đạp cũng được xếp vào phương tiện tham gia giao thông phổ biến nhất thế giới, nó mang đến nhiều lợi ích cho người sử dụng như giúp ta di chuyển dễ dàng tiện lợi trên những quãng đường ngắn như đường làng chật hẹp hay những con phố nhỏ,.. không hề tốn kém mức chi phí nào khác, và hiện nay xe đạp còn là thú vui của hầu hết mọi người trên thế giới.

Xe đạp di chuyển nhờ vào sự tác động từ chân tới bàn đạp xe nên nó rất thân thiện với người dùng cũng như môi trường, hoàn toàn không thải khí vì không dùng đến động cơ, không gây ô nhiễm, không gây ra khói bụi và đặc biệt là an toàn hơn.

Đây cũng là phương tiện dạo mát hay tập thể dục hữu hiệu, thật thú vị khi đạp xe vòng quanh hồ hay trải nghiệp đường trường, mạo hiểm bằng những chiếc xe đạp địa hình là một cách để rèn luyện sức khỏe và vận động cơ thể thật tốt. Xe đạp còn được đưa vào những giải đấu quốc tế mà nhiều người cực thích.

Xe đạp vốn là một phương tiện giao thông được người dân ưa chuộng vào thập kỉ tám mươi, chín mươi. Xe đạp dễ sử dụng, giá thành lại phù hợp với mọi gia đình, chỉ cần vài lần tập luyện là có thể điều khiển được. Tốc độ không nhanh như các phương tiện khác, lại sử dụng sức người nên vừa có tác dụng giảm ô nhiễm môi trường vừa giúp con người rèn luyện sức khỏe. Ngoài ra, sự ra đời của xe đạp đã đánh dấu một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại, vừa là người bạn đồng hành với con người qua năm tháng dài đằng đẵng.

Có thể nói xe đạp là một phương tiện đi lại khá nhỏ gọn và dễ sử dụng, chỉ chiếm một phần nhỏ diện tích khu vực nhà ở. Xe đạp được cấu tạo từ nhiều chất liệu kim loại nên cần được bảo quản ở nơi khô ráo, thoáng mát nhưng cần chế để ngoài trời nắng vì có thể gây gỉ sét. Ngoài các vấn đề nói trên chỉ cần giữ gìn cẩn thận, bảo quản tốt thì tuổi thọ của xe đạp tăng thêm được vài năm.

Từ rất lâu, xe đạp đã trở thành một hình ảnh thân thuộc và giản dị đối với tất cả mọi người, dù là trẻ hay già. Và cho tới ngày nay, xe đạp vẫn là ng bạn thân thiết nhất của con người trên những chặng đường. Dù cho mai sau, thế giới này có tiến bộ đến đâu thì từng khoảnh khắc về chiếc xe đạp thân thương ấy trong tâm trí của mỗi con người cũng không phai nhòa.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 16

Xe đạp là một phương tiện giao thông hai bánh và là một dụng cụ thể thao rất phổ biến. Xe đạp là phương tiện giao thông giản tiện chuyển động nhờ sức người. Đa số xe đạp chuyển động nhờ lực đạp của người điều khiển và giữ thăng bằng nhờ định luật bảo toàn momen quán tính. Phát minh ra xe đạp đã có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, cả về văn hóa và việc thúc đẩy công nghiệp hiện đại hóa.

Năm 1790, xe đạp lần đầu tiên xuất hiện với cái tên célérifère, do bá tước Sivrac sáng chế. Thực tế, nó là một cái máy bằng gỗ, không có bánh xe để lái; việc chuyển hướng đòi hỏi phải lắc mạnh phần trước của xe. Chiếc xe ấy chỉ đi thẳng. Đến năm 1813, nam tước người Đức Karl Friedrich Drais làm cho bánh trước có thể thay đổi hướng được.Người lái ngồi dạng chân trên một khung gỗ được hỗ trợ bởi hai bánh xe và đẩy chiếc xe bằng hai chân của mình trong khi chỉnh hướng bằng bánh xe phía trước

Sáng kiến lắp thêm pedan (bàn đạp) cho bánh trước được cho là thuộc về hai anh em Ernest Michaux và Pierre Michaux. Nhờ sáng kiến có tính đột phá ấy, cỗ xe ấy chính thức được gọi là bicycle (xe đạp). Năm 1879, một người Anh là Lawson đã sáng chế xích để truyền động cho bánh sau. Năm 1887, John Boyd Dunlop, một nhà thú y Scotland, tiếp tục cải tiến bánh xe với việc dùng ống hơi bằng cao su.

Tiếp sau đó, các sáng kiến quan trọng góp phần hoàn thiện chiếc xe đạp như thay khung gỗ bằng khung sắt, kết nối bánh niền với trục bằng nan hoa, bộ phận phanh thắng, bộ phận điều khiển, bộ phận chống sốc,… Từ đó, chiếc xe đạp hoàn thiện đầu tiên chính thức ra đời và nhanh chóng trở thành một phương tiện di chuyển trong đời sống con người.

Xe đạp vốn được làm bằng gỗ. Từ năm 1869 các xe đạp này đã được làm bằng thép. Xe đạp do nhiều bộ phận tạo thành, chủ yếu là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.

Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ố líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Người đi xe ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo dây xích làm chuyển động ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ố líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp.

Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Khi ổ líp chuyến động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700 mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay một vòng thì bánh xe đã lăn được một quãng dài. Ổ líp quay nhanh sẽ làm xe chạy nhanh về phía trước. Lúc đầu bánh xe làm bằng gỗ nên khi chạy, xe xóc rất dữ. Ngày nay người ta làm bánh xe bằng cao su, lốp ở ngoài, săm ở trong, bơm hơi thật căng, có lực đàn hồi, xe chạy ít xóc hẳn.

Bánh xe là bộ phận quan trọng nhất giúp xe chuyển động. Bánh xe làm bằng cao su có tính đàn hồi cao. Vỏ ngoài bánh xe gọi là xăm xe. Bên trong gọi là ruột xe. Ruột xe có chứa hơi với sức nén rất lớn giúp tăng tính đàn hồi. Ngày nay, còn có loại ruột xe liền không có ruột. Hai bộ phận này được hợp nhất lại với nhau giúp hạn chế những rủi ro xì xẹp hơi. Bộ phận lốp và ruột được nâng đỡ bởi mâm kim loại vũng chắc.

Bánh xe xe được gắn kết với trục bằng hệ thống 36 nan hoa kim loại. Các năn hoa được sắp xếp theo một trật tự nhất định, có chức năng nối kết bánh mâm và trục, đồng thời còn giảm xóc cho xe khi di chuyển.

Trục xe là một ống kim loại, bên trong rỗng, có trục thép xuyên qua. Trên trục có 2 ổ bi ở hai đầu trục giúp trục có thể chuyển động tròn. Mỗi ổ bi thường có 36 viên bi nhỏ. Một bộ phận gắn chặt với than xe, một trục kim loại gắn với bánh xe giúp xe chuyển động khi đạp. Lực từ bàn đạp được truyền qua xích, líp đẩy bánh sau chuyển động đưa xe chạy về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm xoay được qua cố xe có ổ bi nhằm lái cho bánh xe trước đi theo phương hướng mong muốn. Hai cái phanh lắp hai đầu tay điều khiển cho tốc độ xe khi đang chạy nhanh có thể chậm lại hoặc dừng hẳn. Bộ phanh gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh làm cho má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe chạy chậm lại hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết.

Nhờ bộ phanh mà người đi xe có thể dừng theo ý muốn. Hai tay cầm ở ghi đông vừa là tay lái, vừa là chỗ nắm để giữ cho người đi xe ngồi vững trên xe. Ngày nay, khi công nghệ phát triển, người ta đã nâng cấp bộ phận phanh thắng hết sức an toàn, hạn chế rủi ro cho người sử dụng.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe và bar-ga ở sau và giỏ đựng ở trước. Yên xe lắp ở trên trục đứng của khung xe. Đó là chỗ ngồi của người đi xe. Bộ phận bar-ga nằm ở phía sau yên xe và thấp hơn khoảng 10cm. Bộ phận này dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được khá nhiều hàng. Có khi người ta lại lắp bộ phận chở’ hàng ở phía trước, dựa trên trục bánh xe trước. Tuy nhiên, khi đồ nặng ở trước xe sẽ gây khó khăn khi chuyển động. Giở xe ở phía trước tay lái, thưởng bỏ những vật nhẹ.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, có đèn xe lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, và đèn tín lắp ở phía sau, có thể có chuông lắp gần chỗ tay cầm.

Ngoài ra, xe đạp còn có bộ phận chống dựa. Chống dựa giúp xe đứng vững khi không sử dụng. Bộ phận này có thể được gắn ở trục giữa của xe hoặc bên trái trục sau. Trên sườn xe, người ta còn gắn các bộ phận phụ khác như bộ phận giữ bình nước, giữ thiết bị phụ đi kèm, trang trí,…

Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động không gây ô nhiễm. Xe đạp được coi là phương tiện giao thông thân thiện với môi trường sinh thái. Nó được sử dụng phổ biến ở nhiều nước có thu nhập đầu người thấp như các nước châu Phi, Việt Nam, Trung Quốc,… làm phương tiện đi lại chính hằng ngày.

Đi xe đạp là cách vận động cơ thể như một hoạt động thể thao. Ở nhiều nước phương Tây, xe đạp được dùng nhiều hơn cho các hoạt động thể thao hay dã ngoại. Việc sử dụng xe đạp cho giao thông thường nhật cũng được khuyến khích tại các nước này với đường dành riêng cho xe đạp. Phương tiện này cũng thích hợp cho các đường phố nhỏ hẹp của những đô thị cổ như Amsterdam ở châu Âu

Xe đạp còn được coi là một môn thể thao với các thể loại khác nhau: đường trường, địa hình,… và được thi đấu trong SEA Games, Olympic,… Các giải đua xe đạp hàng năm trên thế giới thường diễn ra rất rần rộ, thu hút được sự chú ý của mọi người.

Hiện nay xe máy ở nước ta quá nhiều, vừa gây ách tắc giao thông vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai, khi phương tiện giao thông công cộng phát triển, xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch vừa tiện lợi.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chùa Keo Dàn Ý &Amp; 2 Mẫu Thuyết Minh Lớp 8 Hay Nhất

I. Mở bài:

Giới thiệu danh thắng chùa Keo, Thái Bình, có thể sử dụng lời thơ để dẫn dắt:

Đây là ngôi chùa cổ lâu đời nhất, độc đáo nhất và là biểu tượng, niềm tự hào của người dân Thái Bình.

II. Thân bài:

a. Giới thiệu khái quát

Vị trí địa lý: Cách thủ đô Hà Nội khoảng 110 km

Chùa Keo tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Diện tích: 58000 km2

Phương tiện di chuyển: Có thể đi bằng xe máy hoặc ô tô.

Khung cảnh khái quát: Chùa nằm ven chân đê sông Hồng, giữa những cánh đồng lúa xanh rờn thẳng cánh cò bay, cây cối tươi tốt quanh năm bởi nước phù sa bồi đắp.

b. Nguồn gốc và lịch sử hình thành:

Đây là ngôi chùa cổ, đã tồn tại khoảng 400 năm, năm bắt đầu xây dựng là 1630, đến năm 1632 thì hoàn thành.

Xây dựng theo phong cách kiến trúc thời Lê.

Lịch sử hình thành: Trước đây, chùa có tên gọi là Nghiêm Thần Quang, do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng tại Giao Thủy (Nam Định); nhưng sau đó trải qua nhiều đợt lụt, mưa lũ lớn đã cuốn trôi ngôi chùa. Dân cư nơi này đã bỏ quê ra đi, nửa đến Đông Nam hữu ngạn của sông Hồng, định cư và xây dựng chùa Keo (Hành Thiện) nay thuộc Nam Định; phần dân còn lại vượt sông đến vùng Đông Bắc tả ngạn của sông Hồng, định cư và xây dựng chùa Keo thuộc Thái Bình ngày nay.

Tên gọi: Chùa Keo (Thái Bình) có tên khác là Thần Quang Tự, Keo là tên gọi Nôm của Giao Thủy.

c. Kiến trúc chùa Keo:

– Toàn bộ gỗ làm chùa đều là gỗ lim, rất chắc chắn bởi vậy dù trải qua nhiều biến đổi của thời gian nhưng đây là một trong số những ngôi chùa cổ còn giữ được nguyên vẹn đến tận ngày nay.

– Cấu tạo:

Tổng gồm 16 tòa, 126 gian trong đó có 12 tòa và 102 gian chính.

Kiến trúc chính gồm: Tam quan nội, ngoại, Chùa Phật, các tòa bao gồm chùa Ông Hộ, Ống Muống, Tam Bảo, Đền Thánh, Giá Roi, Thiêu Hương, Phụ Quốc, Thượng Điện và Gác Chuông. Ngoài ra còn có các khu tăng xá, nhà khách, khu nhà dành cho ban quản lý chùa.

Kiến trúc tiêu biểu: Gác Chuông có kiến trúc độc đáo tiêu biểu cho kiến trúc thời Lê, cao 11 mét, gồm 3 tầng (tầng 1 treo chiếc khánh đá dài 1 mét 2, tầng 2 là quả chuông đồng cao 1 mét 3 đúc vào thời vua Lê Hy Tông, tầng 3 và tầng trên cùng treo chiếc chuông nhỏ cao hơn nửa mét. Đặc biệt nhất là mái gác chuông có kết cấu gần 100 đàn đầu voi; toàn bộ khung đều làm bằng gỗ chắc gắn với nhau bằng mộng.

– Chùa bố trí, sắp xếp giàn tượng pháp thành các lớp và lưu giữ một số lượng lớn các bảo vật, cổ vật có giá trị hàng trăm năm: Đồ gốm, nhang án thời Lê, đôi chân đèn thời Mạc,…

– Khung cảnh chùa Keo, Thái Bình:

Mặt nước ở cả 3 mặt trước và hai bên tạo ra không gian thoáng đãng tạo cảm giác ngôi chùa vươn cao giống như đóa hoa sen giữa mặt hồ.

Các tòa tháp, các gian được bố trí đơn giản, tỉ lệ cân đối, không quá đồ sộ nhưng cũng không nghèo nàn.

Ngoại cảnh: Bao quanh bởi nhiều cây cổ thụ xanh tốt quanh năm tạo vẻ cổ kính, trong khuôn viên chùa trồng rất nhiều loài hoa quý, cây xanh…

– Lễ hội chùa Keo diễn ra hằng năm vào ngày 13, 14, 15 tháng 9 (Âm lịch) để tưởng nhớ đến Thiền sư Không Lộ, ngoài phần lễ rước kiệu, cúng Thánh trang nghiêm long trọng, chùa còn tổ chức phần hội với các trò chơi dân gian, diễn xướng….

d. Giá trị về lịch sử, văn hóa của chùa Keo với:

– Địa phương: Là biểu tượng, niềm tự hào của tỉnh Thái Bình.

– Đất nước: Là một trong số danh thắng có kiến trúc độc đáo bậc nhất trong cả nước.

Top 10 di tích cổ nhất ở Việt Nam.

Năm 1962, chùa Keo được công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc gia.

Năm 2012, chùa được Nhà nước xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt.

III. Kết bài:

Khẳng định giá trị, ý nghĩa của chùa Keo.

Nêu cảm nghĩ của bản thân về danh thắng đặc biệt này.

Chùa Keo, một khu chùa cổ tuyệt vời, một tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam.

Chùa Keo tên chữ là chùa Thần Quang, nằm ở Vũ Thư, Thái Bình. Theo sử cũ, chùa Keo được xây dựng từ thời nhà Lý Thánh Tông, đến nay đã nhiều lần trùng tu.

Trong những di tích còn lại thì chùa Keo là một di tích có quy mô to lớn. Có lẽ ở nước ta chưa có một ngôi chùa nào lại được tới 57.000m2 với 107 gian chùa lớn (trước là 154 gian) làm toàn bằng gỗ lim. Những con đường dài hàng trăm mét, lát toàn đá xanh rộng gần 2m và 350 vây cột lim lớn nhỏ, đều được kê trên những hòn đá tảng lớn, cổ bồng, chạm cánh sen.

Toàn bộ khu chùa là một quần thể kiến trúc lớn, gồm cột cờ, sân lát đá, tam quan ngoài, ao trước chùa, tam quan trong, sân đất, chùa Hộ, chùa Phật, sân gạch, tòa Giá Roi, tòa Thiên Hương, tòa Phục quốc, tòa Thượng Điện, gác chuông, nhà Tổ… Ngoài ra, là hai dãy hành lang dài hai bên, từ chùa Hộ trở vào.

Tổ chức không gian kiến trúc ở đây thật tài tình, phức tạp một cách trật tự, theo kiểu “tiền Phật hậu Thần”. Khu chùa phía trước và khu đền thờ Không Lộ thiền sư phía sau. Bố cục kiến trúc dường như là phá quy luật, như việc đặt gác chuông ba tầng vào cuối dây chuyền của quần thể. Kiến trúc của gác chuông là sự đồ sộ của hình khối, sự phong phú hài hòa của nhịp điệu và chi tiết, chỉ ba tầng cao 11,06m nhưng lại gây được ấn tượng đồ sộ. Bốn cây cột lim chính cao suốt hai tầng, cùng với hệ thống cột niên và những hàng lan can con tiện, đã được kết nối khéo léo. Các tảng cột gác chuông thuần bằng đá, tạc kiểu hình đôn lớn, chạm hình hoa sen kép rất đẹp. Độc đáo nhất là hệ thống dui bay, tầng tầng lớp lớp vươn lên đỡ mái. Các đầu dui bay phía ngoài vươn ra, choãi xuống theo chiều mái, làm tăng thêm chiều cao của công trình. Đứng xa trông như 200 cánh tay Phật Bà Quan Âm từ mái tầng hai, tầng ba vươn ra vẫy chào khách thập phượng! Tôi đã thấy những người khách nước ngoài dừng lại hàng giờ trước tòa gác chuông ba tầng này, sửng sốt và ngắm nghía mãi tầng tầng lớp lớp mái cong cổ kính và hàng ngàn bộ phận chạm trổ tinh vi, mà ngay đến những người thợ lành nghề nhất được mời đến trùng tu cũng không biết hết tên gọi!

Trong gác chuông có treo hai quả chuông niên đại: Hoàng Triều Cảnh Thịnh Tứ Niên, một di tích quý về sự nghiệp “văn trị” của triều Tây Sơn trên đất Thái Bình. Quai đỉnh chuông đúc từ thời Tây Sơn rất đẹp, chạm hình hai con rồng nối đuôi nhau. Ớ gác một chùa Keo có một khánh đá rất to, không biết đục từ bao giờ, tiếng khánh âm vang.

Hầu như bất cứ bộ phận kiến trúc nào của chùa Keo cũng thấy dấu vết của những bàn tay chạm khắc khéo léo. Ngay ở tam quan nội, một công trình tưởng như nhỏ, nhưng hai cánh cửa trung quan cung được chạm khắc rất công phu. Cánh cửa cao 2,4m, mỗi cánh rộng 1,2m, được chạm một đôi rồng chầu bán nguyệt. Rồng ở đây to, khỏe. Con lớn vươn cổ lên, miệng ngậm hạt châu, râu bờm uốn sóng, rồi choái ra thành những hình lưỡi mác, ngực rồng ưỡn về phía trước, đuôi vắt lên đỉnh tấm cửa. Hàng trăm đám mây lửa ngùn ngụt bốc lên. Rồng như bay lượn trong biển lửa. Có lẽ những người thợ tài ba muốn ký thác những dấu vết của lịch sử trong bức chạm gỗ này. Khép hai cánh cửa lại, chúng ta nhìn thấy một bức tranh hoàn chỉnh: rồng chầu nguyệt. Cái khéo của bức chạm này là trên cùng một mặt phẳng, người thợ đã chạm những vết nổi, nét chìm, con rồng to, rồng nhỏ, gần xa, như cả một bầy rồng bay thong dong trong mây.

Hàng năm, “xuân thu nhị kỳ” vào ngày 4 tháng giêng và trung tuần tháng 9 âm lịch, khách thập phương cuồn cuộn đổ về dự hội chùa. Từ xa, trên đê sông Hồng, mọi người đã nhìn thấy lá cờ thần to bằng gian nhà, bay trên đỉnh cột cờ cao 21m. Cột cờ lớn chốt vào bệ đá sâu hàng mét, vậy mà cờ bay còn rúng cả cột!

Chùa Thần Quang hay còn gọi là chùa Keo, thuộc địa phận huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình được xây dựng từ năm 1067 vào thời nhà Lý. Chùa Keo là ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng, người làng Keo rất tự hào với ngôi chùa vừa cổ kính, vừa nguy nga của làng mình

Từ thành phố Nam Định, qua phà Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi khoảng 10km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng không một bóng núi non, chùa Keo với gác chuông như một hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh rờn được vun bón bởi phù sa sông Hồng do nước sông Trà Lĩnh bồi đắp.

Chùa Keo là một công trình kiến trúc quy mô, phức hợp nhiều khối kiến trúc đa dạng nhất trong tất cả các kiến trúc Phật giáo ở Đồng bằng Bắc bộ. Chùa không chỉ là một bức tranh sinh động cho lịch sử văn hóa nước ta trong 4 thế kỷ, từ thế kỷ 17 đến 20, mà còn là nơi gặp gỡ giữa kiến trúc Trung Hoa và kiến trúc Việt Nam.

Chùa xây dựng trên một vùng đất rộng 100.000 mét vuông, dài từ chân đê đến con người của thôn Bồng Tiên, gồm nhiều cụm kiến trúc xếp theo một trục dài cao thấp khác nhau.

Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25m ở ngoài cùng, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa, cao 2 m, rộng 2,6 m, chạm một ổ rồng với rồng mẹ và rồng con, chầu mặt nguyệt. Nếu đôi cánh cửa ở chùa Phổ Minh tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Trần thì đôi cánh cửa chùa Keo tiêu biểu cho kiến trúc đời nhà Lê.

Qua tam quan, đi tiếp vào chùa, gặp ở hai bên 24 gian hành lang là khách hành hương sắm lễ vào Chùa lễ Phật và lễ Thánh.

Đi đến phần chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối vào nhau. Ngôi nhà ở ngoài, gọi là chùa Hộ, ngôi nhà ở giữa gọi là ống muống và ngôi nhà trong là Phật điện. Đặc biệt ở đây có tượng Thích Ca nhập Niết bàn, tượng Bồ Tát Quan âm Chuẩn Đề đặt giữa tượng Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát. Toàn bộ khu thờ Phật của Chùa Keo có gần 100 pho tượng.

Advertisement

Chùa ngoài thờ Phật, còn thờ Không Lộ – Lý Quốc Sư. Toàn bộ công trình đều làm bằng gỗ lim và là nơi được các nghệ nhân điêu khắc thời nhà Hậu Lê chạm khắc rất tinh xảo.

Sau khu thờ Phật là khu thờ thánh. Tại hội chùa Keo, sau khi đã có những nghi lễ như mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để mang cúng Thánh. Phía ngoài có một giếng nước. Thành giếng xếp bằng 36 cối đá thủng đã từng dùng giã gạo nuôi thợ xây chùa từ xưa.

Đáng kể và tiêu biểu nhất ở đây là kiến trúc tòa gác chuông chùa Keo. Gác chuông chùa Keo là một kiến trúc đẹp, cao 11,04 m, có 3 tầng mái,kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Gác chuông được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn. Ở tầng một có treo một khánh đá cao 1,20m. Tầng hai có quả chuông đồng lớn đúc năm 1686 cao 1,30 m, đường kính 1 m. Hai quả chuông nhỏ treo ở tầng ba và tầng thượng cao 0,62m, đường kính 0,69 m đều được đúc năm 1796.

Hai hành lang chạy dài từ chùa Hộ nối với nhà tổ và nhà trai sát gác chuông, bao quanh toàn bộ chùa.

Đến thăm chùa, ta có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà tương truyền rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.

Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình. Gác chuông với bộ mái kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn bảo lưu được hàng trăm tượng Pháp và đồ tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác đặc sắc.

Hằng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng âm lịch, nhân dân làng Keo lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên làng.

Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 âm lịch, chùa Keo lại mở hội mùa thu. Đây là hội chính, kỷ niệm 100 ngày Thiền sư Không Lộ (1016-1094), người sáng lập ngôi chùa, qua đời (ngày 3 tháng 6 âm lịch).

Trong ngày hội, người ta tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài lục cúng: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết Dàn Ý &Amp; 12 Bài Thuyết Minh Món Ăn Lớp 8

Với mong muốn mang lại may mắn, tài lộc trong năm, nên các món ăn ngày Tết thường được mọi người lựa chọn rất kỹ về nguyên liệu, cách chế biến. Với 12 bài thuyết minh về bánh Tét, thuyết minh bánh chưng, thuyết minh món dưa muối, thuyết minh món củ kiệu… sẽ giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới.

Đề bài: Thuyết minh về món ăn ngày tết là một đề bài nói về cái tết của dân tộc hay là những món ăn nên ăn trong ngày tết để mang lại may mắn cho bạn vào trong năm. Các món ăn được mọi người chọn lựa rất kỹ về nguyên liệu, hay cách chế biến của nó.

Dàn ý Thuyết minh về món ăn ngày Tết

Thuyết minh về bánh Tét ngày Tết (3 mẫu)

Thuyết minh về bánh chưng (6 mẫu)

Thuyết minh về món dưa muối

Thuyết minh về món thịt kho tàu

Thuyết minh về món củ kiệu

I. Mở bài: giới thiệu món ăn yêu thích

Vào mỗi dịp tết, chúng ta thường làm các món ăn truyền thống như: bánh tét, bánh giày, mứt,…. Những món ăn này luôn có mặt trong tất cả các lễ tết. Một món bánh truyền thống có từ lâu đời, có vào các ngày lễ. Một món ăn mà em rất yêu thích là bánh chưng. Món ăn này rất ngon và bổ ích, em rất thích ăn bánh chưng.

II. Thân bài: thuyết minh về bánh chưng

1. Nguồn gốc bánh chưng:

Sự tích bánh chưng:

Món bánh này nói đến sự nhắc nhở của Vua đến sự quan tâm đến và biết ơn đến lúa nước.

Quan niệm truyền thống của bánh chưng:

Bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa

Bánh chưng tượng trưng cho trời

2. Nguyên liệu làm bánh:

Lá gói bánh

Lạt buộc

Gạo nếp

Đỗ xanh

Gia vị khác

Phụ màu

3. Quy trình chuẩn bị gói bánh:

Lá gói bánh: lá dong hoặc lá chuối, rửa lá cho sạch rồi phơi khô

Gạo nếp: được vo sạch, ngâm để hạt được mềm

Đỗ xanh: ngâm tách vỏ, giã nhuyễn, trộn với thịt

Thịt lợn: rửa sạch, cắt nhỏ và ướt gia vị

4. Quy trình thực hiện:

– Gói bánh: bánh được gói bằng tay, khuôn bánh khoảng 25 cm x 25cm

– Luộc bánh: bánh được luộc trong nước, và luộc khoảng 10 đến 12 tiếng

– Sử dụng bánh

Bánh được dùng để cúng vào ngày tết

Bánh được dùng để đón tết

Bánh được dùng để biếu người thân

III. Kết bài: cảm nghĩ của em về món ăn em yêu thích

Bánh chưng là món ăn truyền thống của dân tộc Việt Nam

Chúng ta nên lưu giữ truyền thống của dân tộc

Nếu nói bánh Chưng là biểu trưng cho ngày Tết miền Bắc thì bánh Tét chính là linh hồn Tết của miền Nam. Mặc dù ở mỗi địa phương lại có loại bánh Tét khác nhau nhưng nhìn chung bánh Tét Nam Bộ đều chung một khuôn mẫu, chung một quy trình cách thức và đều mang ý nghĩa sâu sắc.

Bàn về nguồn gốc của bánh Tét, có rất nhiều những thông tin khác nhau được đưa ra. Có nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn gốc bánh Tét là từ sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm-pa, cũng có truyền thuyết nói rằng bánh Tét có từ thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh quân Thanh. Khi vua cho quân nghỉ chân ăn Tết năm 1789, vua thấy anh lính mang mời một món bánh rất ngon liền ra lệnh mọi người gói bánh này ăn Tết, đặt tên là bánh Tết, lâu ngày tên bánh chuyển thành bánh Tét.

Bánh Chưng có hình vuông tượng trưng cho trời, đất thì bánh Tét có hình trụ dài tượng trưng cho những cột chống trời, đứng giữa trời và đất mở ra không gian cho con người sinh hoạt và lao động sản xuất. Chính vì hình dáng trụ dài này nên bánh Tét còn được gọi với tên thân thuộc là những đòn bánh Tét. Thuở xa xưa khi đời sống còn khó khăn, bánh Chưng hay bánh Tét chỉ được gói vào dịp đặc biệt quan trọng như Tết nguyên đán, ngày nay bánh tét cũng được gói vào dịp này, tuy nhiên cũng có thể gói để bán vào mọi thời điểm trong năm. Mọi người gói bánh vào dịp trước Tết để vào ngày Tết có cặp bánh tét để trên bàn thờ dâng tổ tiên.

Bánh tét được gói bằng là chuối hoặc lá dong với nhân là gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn. Có nhiều loại bánh tét phụ thuộc vào nhân của nó nhưng nhìn chung có hai loại là bánh tét mặn và bánh tét ngọt. Bánh tét mặn nhân thịt còn bánh tét ngọt nhân các loại đỗ đen, đỗ đỏ, hạt điều, làm nên sự phong phú của món ăn này. Từng địa phương ở Nam bộ lại làm ra những món bánh tét mang hương vị khác nhau, mỗi nơi lại cố gắng mang hương vị đặc trưng của địa phương vào chiếc bánh. Điển hình như Bến Tre còn có bánh tét không nhân, bánh chỉ có gạo nếp trộn cũng đậu và nước cốt dừa ăn rất lạ. Trước khi gói bánh cần có khâu chuẩn bị nguyên liệu: rửa sạch lá dong, ngâm gạo, vo rửa gạo và đậu xanh thật kỹ, thái và ướp thịt hoặc chuẩn bị các loại nhân. Nguyên liệu phải hoàn toàn tự nhiên và tươi ngon nhất, màu xanh của gạo có được nhờ trộn với nước lá rau ngót hoặc lá dứa, gạo nếp thơm dẻo có độ xốp nhất định. Một chiếc bánh tét được xem là gói khéo nhất khi bánh tròn đều, lạt buộc chắc tay và khi cắt ra nhân bánh có hình tam giác.

Quá trình luộc bánh rất quan trọng, nó quyết định đến độ thơm ngon, dẻo đẹp và bắt mắt của chiếc bánh. Bánh sau khi gói xong được dựng thẳng đứng vào trong nồi, đổ ngập nước và luộc sôi trong 6 đến 8 tiếng tùy vào số lượng và kích thước của bánh. Lúc vớt bánh ra người ta thường đem bánh rửa trong nước lạnh để bánh sạch sẽ không bị mốc, nước lạnh giúp bánh cứng chắc và giữ dáng hơn. Khi thưởng thức bánh tét, cách ngon nhất là dùng lạt để cắt, một tay cầm bánh, một tay cầm đầu dây lạt, một đầu dùng răng cắn rồi nhẹ nhàng kéo để cắt ra một khoanh bánh tét. Ăn đến đâu sẽ lột vỏ và cắt bánh đến đó, như vậy sẽ giữ được bánh lâu hơn và bảo quản tốt hơn. Bánh tét có nhiều cách ăn cùng các món ăn khác, thông thường đối với bánh tét mặn sẽ được ăn kèm với các loại dưa hành, dưa kiệu, dưa củ quả còn các loại bánh tét ngọt sẽ được ăn với hoa quả như chuối.

Là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết của người dân Nam bộ, bánh tét mang ý nghĩa nhân sinh cao cả, tượng trưng cho hình ảnh người mẹ bao bọc con cái, lớp vỏ bánh bao quanh lớp nhân bên trong giống như sự đùm bọc, bảo vệ nhau, yêu thương nhau giữa mọi người. Bánh tét làm từ những nguyên liệu xuất phát từ quá trình lao động của con người vì thế nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho đất trời, mùa màng, chăn nuôi, sức lao động của con người. Sự có mặt của bánh tét trong ngày Tết mang đến sự ấm cúng, sum vầy, không khí ấm áp hạnh phúc trong mọi gia đình.

Bánh tét là một món ăn nhưng hơn cả ý nghĩa của một món ăn, nó mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp, nó thể hiện được bản sắc văn hóa, đời sống tình cảm cũng như lối sống của người dân Nam Bộ. Từ những khoanh bánh tét trên mâm cơm ngày Tết người ta gợi ra những câu chuyện, trao nhau những tình cảm và răn dạy nhau nhiều điều trong cuộc sống.

Bánh tét được phổ biến bắt đầu từ tỉnh miền Trung Thừa Thiên – Huế trở vào. Tùy từng địa phương mà thêm gia vị cho phù hợp và tùy hoàn cảnh mà có kích thước khác nhau. Phổ biến nhất là bánh có độ dài khoảng 2 gang tay người lớn, với đường kính 10cm, khi cắt bánh xếp ba lát bánh tạo thành hình cánh hoa, ở giữa đặt thêm một lát bánh nữa tạo thành hình hoa trên đĩa.

Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu Long xưa kia, có gia đình con, cháu đông đúc người ta thường gói những đòn bánh lớn, nặng hơn 1kg, khi cắt ra đặt gọn trong lòng đĩa, phần vỏ bánh có màu xanh cốm, chính giữa là nhân đậu xanh vàng óng trông đẹp mắt.

Nhiều gia đình gói bánh chay nhân không có thịt hoặc đậu xanh trộn thêm đường làm nhân ngọt, cũng có nhà làm bánh tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh. Chuối làm nhân người dân thường chọn chuối xiêm (một loại chuối phổ biến của miền Nam) trộn thêm ít đường để tăng vị ngọt, khi bánh chín nhân có màu đỏ tím nổi bật giữa lớp vỏ nếp trắng trông rất lạ mắt.

Cũng còn một loại bánh tét đặc biệt nữa là bánh tét thập cẩm. Nguyên liệu chính của bánh vẫn là nếp và đậu xanh, nhưng phần nhân có thêm trứng, tôm khô, lạp sườn, hạt sen, lạc, nấm. Loại bánh này ăn rất ngon nhưng cũng khá tốn kém, xưa kia chỉ những gia đình khá giả mới làm.

Bánh phải được buộc thành cặp, có buộc dây để dễ xách, khi tặng người thân, bè bạn phải cả đôi, thay cho lời chúc một năm mới đủ đôi vừa cặp, hạnh phúc, thịnh vượng.

Bánh phải được cắt bằng sợi chỉ tạo cho mặt bánh mịn màng. Ăn bánh với củ kiệu hoặc thịt lợn kho tàu, mùi thơm dẻo của gạo nếp, vị bùi của nhân đỗ, vị béo của thịt lợn và vị chua của củ kiệu hoà quyện với gia vị tạo nên hương vị thật là độc đáo làm người ăn một lần sẽ nhớ mãi.

Không biết từ bao giờ, trong các món ăn ngày Tết của người miền Nam luôn có mặt món bánh tét. Cũng ít ai giải thích được vì sao Tết đến phải gói bánh tét. Nhân ba ngày Tết, báo điện tử Infonet đã thử đi tìm hiểu nguồn gốc của tục lệ gói bánh tét ngày Tết.

Theo phong tục Tết cổ truyền nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 đón giao thừa. Cả nhà thức chờ quanh nồi nấu bánh, trẻ con làm nhiệm vụ chụm bếp lò, tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết.

Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là: bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Bánh tét ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu.

Một số sách vở cho rằng, bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng “phồn thực”. Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).

Nguyên liệu làm bánh là từ động vật (thịt ba chỉ) và thực vật (lá gói, gạo nếp, đậu xanh), đại diện cho hai cực âm – dương. Ngoài ra, đậu và nếp cũng là hai cực âm – dương khi được trồng ở hai nơi: đậu trên cạn và lúa nếp dưới nước. Âm dương hòa quyện vào nhau không thể tách rời và làm nên một vật phẩm, một món ăn đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền.

Mặt khác, tên gọi bánh tét có cách phát âm gần giống với từ “Tết” nên người ta cho rằng bánh tét là bánh Tết được đọc lệch đi theo cách ăn loại bánh này. Điều này giải thích vì sao bánh tét lại có mặt trong ba ngày Tết của người miền Nam.

Theo phong tục Tết cổ truyền nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 đón giao thừa. Cả nhà thức chờ quanh nồi nấu bánh, trẻ con làm nhiệm vụ chụm bếp lò, tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết.

Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là: bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Bánh tét ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu.

Một số sách vở cho rằng, bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng “phồn thực”. Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).

Nguyên liệu làm bánh là từ động vật (thịt ba chỉ) và thực vật (lá gói, gạo nếp, đậu xanh), đại diện cho hai cực âm – dương. Ngoài ra, đậu và nếp cũng là hai cực âm – dương khi được trồng ở hai nơi: đậu trên cạn và lúa nếp dưới nước. Âm dương hòa quyện vào nhau không thể tách rời và làm nên một vật phẩm, một món ăn đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền.

Mặt khác, tên gọi bánh tét có cách phát âm gần giống với từ “Tết” nên người ta cho rằng bánh tét là bánh Tết được đọc lệch đi theo cách ăn loại bánh này. Điều này giải thích vì sao bánh tét lại có mặt trong ba ngày Tết của người miền Nam.

Một truyền thuyết khác bổ sung thêm cho nguồn gốc của bánh tét, cách gọi tên bánh và thói quen ăn bánh tét trong ngày Tết được kể như sau:

Vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789, Nguyễn Huệ và quân ta đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước. Lúc bấy giờ quân lính được nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình dạng như bánh tét ngày nay (tuy nhiên lúc bấy giờ chưa có tên gọi). Anh lính mang bánh mời vua Quang Trung.

Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng (có thể xem là đau dạ dày) nhưng khi ăn bánh này thì lại không thấy đau nữa.

Nghe câu chuyện cảm động của anh lính, vua bèn ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này để ăn Tết và đặt tên là bánh Tết nhằm ghi nhớ chiến thắng giặc Thanh vào mùa xuân và thể hiện tình cảm gia đình thắm thiết mỗi độ xuân về. Đó được xem là nguồn gốc của bánh tét trong ngày Tết cổ truyền.

Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền. Từ xa xưa đến nay, mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn về những nồi bánh chưng rất to để đón Tết. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, ý nghĩa đoàn viên bình dị nhưng ấm áp.

Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.

Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất.

Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong.

Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh..

Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.

Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà.

Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.

Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiếu. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người.

Trong ngày Tết có rất nhiều lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.

Ngày tết là một ngày mà tất cả mọi người đều coi trọng. Đó là những ngày được coi là ngày hên xui cả năm. Nên mọi người chọn gì để trưng bày ngày tết, ăn uống trong ngày tết rất được chú ý. Tại sao mọi người lại chọn gà để cúng đầu năm mà không chọn vịt? đó là vì gà đem lại may mắn cho họ. Ngày đầu năm có rất nhiều thứ, nhiều món ăn rất kiêng kỵ.

Các món ăn được mọi người chọn lựa một cách kỹ càng. Để cầu may cho cả gia đình. Ví dụ như đầu năm người ta thường làm bánh chưng, bánh tét để cúng ông bà tổ tiên của họ. Nguyên liệu được làm bằng nếp, gạo để diễn tả cho sự may mắn, quanh năm đều có gạo, nếp trong nhà. Còn thể hiện sự đầy đủ, cơm ăn áo mặc. Không chỉ vậy, trái cây còn được mọi người chuẩn bị rất đầy đủ như đu đủ, dừa, mãng cầu và một số loại nữa thể hiện cho sự cầu vừa đủ xài trong năm.

Nói đến món ăn không thể nào khước từ được chiếc bánh chưng trong ngày tết. Chiếc bánh chưng thể hiện cho nét văn hóa dân tộc từ bao đời nay. Nó có từ rất lâu, thể hiện cho những công đoạn cực khổ mới có được nó. Như từ khi gieo hạt, trồng cấy, thu hái, xay giã, gói luộc đối với người nông dân ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Nam. Và, bánh chưng cũng có thể được mua như mua các loại hàng hoá khác đối với những người dân các vùng đô thị trong nước và ở nước ngoài. Chiếc bánh chưng ngày tết dù tự túc, tự sản hay được mua bán như những thứ hàng hoá khác nhưng đều có chung một điểm: Đó là sản vật không thể thiếu để dâng cúng lên cha mẹ, ông bà, tổ tiên trong ngày Tết.

Không chỉ vậy, khi chúng ta ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, dư vị thời gian, không gian huyền thoại của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Bên cạnh đó, chiếc bánh chưng làm ta nhớ đến những nét đẹp văn hóa từ bao đời nay và đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và văn hoá ẩm thực Việt Nam.

Ngày xửa ngày xưa vua Hùng muốn nhường lại ngôi vua của mình cho các con nên đã truyền cho hoàng tử nào dâng lên vua những vật có ý nghĩa và lạ nhất thì có thể thay vua trị vị đất nước. Khi ấy Lang Liêu đã làm ra hai loại bánh trong đó có bánh chưng tượng trưng cho trái đất. Và khi bánh chưng có từ ngày đó, loại bánh này có ý nghĩa gì mà con người Việt Nam chúng ta lại coi nó là một trong ba đồ sử dụng trong ngày tết?.

Về truyền thuyết của bánh chưng thì chúng ta biết nó ra đời trong sự kiện vua Hùng Vương nhường ngôi cho các con trai của mình. Ông vua ấy đã truyền lệnh cho tất cả những người con mang đến những lễ vật. Không giống như những anh trai mang vàng bạc châu báu mà người con út của Vua Hùng lại dâng lên vua cha hai loại bánh là bánh chưng và bánh dày. Bánh chưng có từ đó để tượng trưng cho trái đất hình vuông.

Đến ngày nay thì nhân dân ta đã sử dụng bánh chưng vào ngày tết giống như một truyền thống đặc trưng. Vật liệu để làm bánh chưng bao gồm lá dong, gạo nếp đã ngâm nở ra, đỗ ngâm bỏ vỏ, thịt lợn, lạt… tất cả những vật liệu ấy đều không thể thiếu được.

Về cách gói bánh thì nhân dân ta thường gói bánh theo hai hình là hình vuông truyền thống và hình tròn dài. Theo cách gói bánh vuông truyền thống nếu muốn cho bánh đẹp vuông vắn thì lá dong phải to và dài, xếp hai lá lên nhau đổ một lớp gạo xuống sau đó là một ít đỗ bên trên tiếp đến là miếng thịt đã ướp gia vị và cuối cùng là một lớp đỗ và gạo đỗ lên trên cùng. Công đoạn nguyên liệu bên trong đã đủ thì chúng ta gấp các lá bánh lên sao cho vuông vắn và ôm sát vào những nguyên liệu bên trong. Khi này chúng ta phải lấy tay ấn thật chặt cho gạo đỗ đổ đầy vào những chỗ hở để tạo thành một hình vuông vắn. Khi đã có một khối vuông vắn thì chúng ta phải lấy những chiếc lạt buộc cố định lại để đem đi luộc. Còn đối với bánh tròn dài thì cũng tương tự nhưng cần đến lá dài hơn buộc bánh theo hình dài chứ không nén chặt theo hình vuông. Thường nhân dân ta hay gói bánh chưng vào những ngày cuối năm như 29 hoặc 30 để đón năm mới hay cùng nhau trông bánh chưng chờ giao thừa qua. Những nồi bánh ấm nồng cùng với sự sum họp quây quần của anh chị em bên nhau như xua tan đi mọi cái giá lạnh đầu mùa xuân. Mọi người không còn những ưu tư phiền muộn mà chỉ còn khoảnh khắc hạnh phúc bên nhau mà thôi.

Bánh chưng trong ngày tết có những ý nghĩa rất lớn. Tuy khoa học đã chứng minh rằng trái đất không phải là hình vuông như người xưa trong truyền thuyết nói nhưng qua bánh chưng ấy người Việt ta bày tỏ những tấm lòng nhớ về người xưa tổ tiên ông bà đã sáng tạo và để lại loại bánh có ý nghĩa ấy. Không những thế nó được sử dụng trong ngày tết vì nó có sự đầy đủ của nhiều thứ nguyên liệu và có vị ngon hấp dẫn. Chính vì thế mà nó không thể nào vắng mặt trong ngày tết truyền thống của nhân dân ta.

Không những thế mà bánh chưng còn để thắp hương thờ cúng ông bà tổ tiên trong những ngày tết. Nhân dân ta sẽ chọn những chiếc bánh đẹp nhất để có thể đem lên bày trên bàn thờ ông bà với những món hoa quả bánh kẹo trên đó.

Bánh chưng còn làm cho mọi người sum họp gần gũi nhau hơn và có một cái tết ấm lòng không. Anh chị em quây quần bên nhau cùng gói bánh cùng nói chuyện cười vui tươi chào mừng năm mới đến. Không kể lúc luộc bánh tất cả cùng ngồi trông bánh bên ngọn lửa hồng.

Đặc biệt bánh ăn nóng rất ngon tuy nhiên khi nó nguội rồi nhân dân ta còn có thể cắt chúng ra từng miếng nhỏ đem rán lên ăn rất là ngon và thơm. Những người không ăn được mỡ thì cũng có thể ăn được bởi vì khi ninh nhừ như thế rồi thì thịt mỡ không còn ngấy như khi luộc bình thường nữa mà nó rất dễ ăn.

Tóm lại bánh chưng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống cũng như tình cảm của nhân dân ta trong ngày tết truyền thống. Và từ khi xuất hiện cho đến ngày nay bánh chưng như khẳng định sự thơm ngon hấp dẫn cùng với những ý nghĩa của mình. Vì vậy bánh chưng không thể vắng mặt trong gia đình Việt nam ngày Tết.

Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.

Theo những câu chuyện đã truyền lại thì bánh chưng có từ thời các vua Hùng. Đó là vào thời vua Hùng Vương thứ 6, khi tìm người kế vị ngai vàng, ông đã yêu cầu các hoàng tử dâng lên một món ăn mà họ cho là ngon nhất. Món ăn của ai ngon sẽ được chọn làm vua. Hầu hết các hoàng tử đều chọn làm các món sơn hào hải vị và dĩ nhiên là chúng rất ngon. Chỉ có Lang Liêu là làm bánh chưng bánh dày. Chiếc bánh chưng bánh dày làm từ gạo tượng trưng cho đất và trời đã thuyết phục tất cả mọi người và chàng được chọn lên làm vua kế vị.

Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất. Chiếc bánh chưng có hình vuông đẹp mắt, gói bên ngoài bằng những chiếc lá dong xanh mướt. Người ta dùng những chiếc lạt để buộc bánh chưng lại cho chặt. Những nguyên liệu để làm bánh chưng là những nguyên liệu vô cùng quen thuộc với người Việt Nam. Nhân bánh được làm từ gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn. Ngoài ra còn có thêm một vài loại gia vị nữa như muối, hạt tiêu, hành,… Lá dong dùng để gói bánh thường là lá dong bánh tẻ. Có như vậy thì bánh mới ngon, bánh luộc lên lá vẫn xanh và khi bóc thì không bị dính. Lạt được chẻ và tước mỏng ra từ những cây giang. Lạt giang chẻ phải thật mỏng, đủ mềm để buộc bánh dễ dàng. Lạt chẻ có màu vàng ngà khi gói với lá dong xanh sẽ tạo thành hai màu đối lập nổi bật trông rất đẹp. Gạo dùng để nấu bánh chưng nên là gạo nếp cái hoa vàng bởi đây là loại gạo ngon, thơm. Muốn nấu bánh được dẻo thì gạo phải ngâm trước từ đêm với nước nóng khoảng 8 tiếng sau đó đem vo lại rồi xóc cho ráo nước. Đậu xanh dùng loại đã đãi vỏ hoặc mua loại có vỏ về ngâm với nước nóng rồi tự đãi vỏ. Thịt lợn thường dùng loại thị 3 chỉ vì có cả nạc cả mỡ. Thịt xắt miếng to cỡ nửa bàn tay sau đó ướp với gia vị cho ngấm. Chọn lá dong to đẹp rồi đem rửa sạch và lau khô trước khi gói. Khi tiến hành gói bánh chưng bạn đặt tất cả các nguyên liệu cần thiết xung quanh. Cần có thêm một chiếc kéo để cắt lá dong. Đặt lá dong lên bề mặt phẳng, sạch, người Việt thường đặt lên mâm. Khoảng 3-4 chiếc lá dong sẽ gói được một chiếc bánh chưng. Đầu tiên múc một bát gạo đổ vào giữa lá dong, dàn đều rồi cho nửa bát đỗ, 2 miếng thịt, nửa bát đỗ và thêm 1 bát gạo nữa. Đãi gạo sao cho gạo che kín đỗ và thịt. Lúc này nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vức. Sau cùng dùng lạt buộc chặt chiếc bánh lại. Nếu muốn đẹp có thể dùng khuôn để gói bánh. Sau khi gói hết chỗ nhân đã chuẩn bị thì buộc bánh theo từng cặp và xếp vào nồi to, mang ra bếp củi đun trong khoảng 8-10 tiếng. Trong quá trình đun phải canh để lửa cháy đều và thêm nước nóng vào nồi luộc bánh nếu như thấy nước cạn. Đó là lý do vì sao ta thấy người Việt luôn đặt một ấm nước bên cạnh nồi luộc bánh chưng.

Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiết. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người. Trong ngày Tết có rất nhiều lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, mùi thơm bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.

Nước Việt Nam ta từ bao đời nay có nhiều truyền thống đạo lý tốt đẹp. Cha ông ta đã giữ gìn những nét đẹp ấy và rồi truyền lại cho con cháu đời sau tiếp tục nối tiếp và lưu giữ những truyền thống ấy. Trong số đó, không thể không nhắc đến bánh chưng, một loại bánh mà sự ra đời của nó là cả một câu chuyện li kì, hấp dẫn.

Theo truyền thuyết, đời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng. Riêng người con trai thứ 18 của Hùng Vương là Lang Liêu (tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho) rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình trời và đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình cha mẹ sinh thành.” Lang Liêu vô cùng mừng rỡ và làm theo lời Thần dặn. Ông chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng trưng cho đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là bánh chưng. Ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng trưng cho trời, gọi là bánh dầy. Lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon và có ý nghĩa, bèn truyền ngôi vua lại cho Lang Liêu. Kể từ đó, mỗi dịp đến Tết cổ truyền, thì dân chúng đều làm bánh chưng và bánh dày để dâng cúng tổ tiên, trời đất.

Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là gạo nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon đậm đà nhất. Về phần gạo nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong. Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh. Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp bốn góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà.

Trong những ngày rằm, mùng 1 hay ngày lễ Tết, giỗ chạp, trên mâm cỗ cúng của người Việt không thể nào thiếu được chiếc bánh chưng. Loại bánh này đã đi sâu vào truyền thống văn hóa của dân tộc và trở thành món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Bánh chưng là biểu tượng cho đất nơi mà con người sinh ra và lớn lên. Trong những ngày Tết cổ truyền, không có gia đình Việt Nam nào lại thiếu vắng những chiếc bánh chưng xanh trên bàn thờ, trên mâm cúng ông bà, tổ tiên. Ngày nay, cuộc sống ngày càng bận rộn nên mọi nhà có thể tự làm hoặc được mua. Nhưng cho dù mua hay tự làm thì bánh chưng vẫn là một nét đẹp lâu đời không gì thay thế được trong văn hoá tâm linh của người Việt. Trong tâm khảm của những người Việt xa quê, bánh chưng vẫn giữ nguyên ý nghĩa và sức sống mãnh liệt của nó. Ngay tiểu bang California ở Mỹ là nơi có nhiều người Việt sinh sống. Vào đầu năm ngoái, Việt kiều ở đây rất vui khi được Ban Y tế California nhận định: “Bánh chưng là một loại văn hoá ẩm thực ngàn xưa của người Việt Nam”, nên Ban này đã thông qua dự luật AB-2214 về việc cho phép bán bánh chưng.

Ngày tết, ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, dư vị thời gian, không gian huyền thoại của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và văn hoá ẩm thực Việt Nam.

Bánh chưng là một trong những món ăn không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam mỗi dịp Tết đến xuân về. Từ bao đời nay, bánh chưng đã như một món ăn gắn bó, sum vầy, mang đậm hương vị Tết cổ truyền dân tộc.

Truyện xưa kể rằng, từ đời Hùng Vương thứ 6, hoàng tử Lang liêu đã được vua cha lựa chọn để truyền ngôi với món bánh chưng, một thức bánh làm từ lúa gạo, do chính con người làm ra. Bánh chưng thường đi liền với bánh dày, nếu như bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại hình tượng trưng cho đất, con người luôn phải biết ơn mảnh đất đã sinh ra và nuôi sống chúng ta. Bánh chưng bao gồm những nguyên liệu rất đơn giản: Lá dong dùng để gói bánh, gạo nếp làm vỏ bánh và đỗ xanh, thịt lợn, hành làm nhân bánh. Để chuẩn bị gói bánh chưng, ta phải chuẩn bị những lá dong với nhiều kích cỡ, rửa sạch. Gạo nếp và đỗ xanh phải được ngâm sẵn, thịt lợn thái miếng và hành thái lát mỏng. Sau đó đến công đoạn gói bánh chưng. Ngày trước ông bà ta gói bánh chưng thuần túy bằng tay, nhưng bây giờ thường có khuôn để gói bánh được vuông vắn và dễ dàng hơn. Đầu tiên là đặt hai chiếc lạt biên dưới khuôn, sau đó xếp một lớp lá dong vuông vắn lên bốn mép khuôn. Tiếp theo là một lớp gạo nếp. Sau khi đã đổ gạo nếp lần thứ nhất, ta sẽ cho nhân bánh chưng gồm có đỗ, thịt và hành vào, xan đều ra giữa bánh rồi lại đổ thêm một lớp gạo nếp nữa. Cuối cùng là gói bánh lại và dùng lạt để cố định bánh cho chắc chắn. Khi gói bánh ta không nên xê dịch để tránh bị góc lệch. Những chiếc bánh chưng được coi là đạt tiêu chuẩn khi phần gạo và nhân bánh được nằm vuông vắn trong lớp lá, khi gói bánh chưng, không được cho lớp lá quá mỏng hay rách bởi nếu vậy khi luộc ruột bánh sẽ bị bung ra ngoài. Sau khi gói xong bánh chưng, ta cần chuẩn bị một nồi lớn để luộc bánh, thường thì sẽ luộc bánh chưng bằng bếp củi vì mất khá nhiều thời gian, xếp lần lượt bánh chưng vào nồi sau đó đổ nước vào, để lửa cháy âm ỉ trong khoảng 6-10 tiếng. Bánh chưng cần luộc lâu để chín đều và mềm thơm. Sau khi luộc xong bánh chưng cần được ép cho vuông vắn. Lúc ấy một chiếc bánh chưng mới hoàn chỉnh.

Advertisement

Bánh chưng thường được dùng để cúng ông bà tổ tiên, mang làm quà biếu tặng mỗi dịp Tết đến xuân về, vừa gần gũi lại vừa lịch sự. Bóc bánh chưng, màu bánh phải xanh màu lá dong, gạo phải mềm và chín tới mới ngon. Bánh chưng không cắt bằng dao mà dùng chính lạt gói bánh để cắt rất dễ dàng. Lớp vỏ bánh dính chặt và thơm mùi gạo nếp, mùi lá dong, đỗ bở tới, quyện với thịt lợn và hành tươi tạo nên một hương vị độc đáo và riêng biệt. Bánh chưng thường được ăn kèm với hành muối và dưa món,… Những chiếc bánh chưng trong mâm cơm ngày Tết vừa là món ăn thân thuộc vừa là mong chờ và niềm chúc cho những điều tốt đẹp trong năm mới sẽ đến với mỗi gia đình.

Cho dù xã hội có phát triển đến đâu, những món ăn mới và ngon như thế nào có ra đời, vị trí của bánh chưng trong mỗi dịp lễ trọng đại của dân tộc vẫn không thể thay thế. Món bánh chưng mộc mạc giản dị mà đầy ý nghĩa, vừa là sự biết ơn với ông cha ta, vừa là nét đẹp văn hóa không thể phai mờ.

Vào ngày tết, bên cạnh bánh kẹo, mứt dưa, hoa trái thì không thể thiếu những món ăn đậm đà và đặc trưng mang vị dân tộc. Đó là bánh chưng xanh gói lá chuối, là nồi thịt kho tàu thơm ngon và không thể không nhắc đến món dưa chua dân giã, một món ăn đầy hấp dẫn.

Không biết được con người sáng tạo ra từ bao giờ nhưng có lẽ là từ rất lâu lắm rồi, món ăn này đã ra đời và trở thành quen thuộc trong các bữa ăn của các gia đình. Đặc biệt là vào những ngày tết cổ truyền, mỗi gia đình thường làm cho mình một hũ dưa món màu sắc không chỉ đẹp về thẩm mỹ mà còn mang lại vị chua ngon, hấp dẫn khi thưởng thức.

Món dưa không quá cầu kỳ trong cách làm, thực phẩm chuẩn bị cũng không quá đắt đỏ. Có khi chỉ có trong tay vài chục đến một trăm ngàn là có thể mua đủ nguyên liệu làm một hũ dưa muối ngon lành. Bởi thế mà vào những ngày cuối cùng của năm, trong mỗi chiếc làn, chiếc giỏ của những người bà, người mẹ khi chợ về không thể không có những củ cà rốt đỏ tươi, những củ hành, củ kiệu trắng và những quả đu đủ ươm vàng.

Nói như vậy để thấy rằng những nguyên liệu món này khi làm cần phải có là cà rốt, củ cải, đu đủ, hành tím, sự hào, ớt đỏ….ngoài ra còn cần các gia vị đi kèm như nước mắm, đường, lạc . Tùy thuộc vào sở thích mà người làm có thể thêm bớt một vài nguyên liệu, song về cơ bản các nguyên liệu kể trên nếu đầy đủ sẽ mang lại một hũ dưa món đủ vị khi ăn.

Khi có sẵn nguyên liệu, người ta bắt tay vào làm dưa món. Khâu đầu tiên là gọt vỏ, rửa sạch tất cả các loại củ cần làm. Đây là bước không thể thiếu để đảm bảo vệ sinh cho thực phẩm. Sau khi làm sạch, dùng dao thái rau củ ra thành các miếng nhỏ, mỗi miếng dày từ 3 đến 5 xăng- ti- mét. Để tạo tính thẩm mĩ cho món ăn, có thể dùng dao cắt tỉa thanh hoa hay những đường vân dài thật đẹp. Những rau củ khi được cắt xong thì cho vào thau, dùng muối bóp trong khoảng 10 phút, rồi từ từ dùng nước lạnh rửa qua một lần nữa, vớt lên cho ráo rồi đem ra phơi nắng. Thời tiết càng nắng thì rau củ càng nhanh héo, món ăn dễ thấm gia vị và ngon hơn rất nhiều. Trường hợp tết đúng vào đợt gió mùa, mưa rét trời không có nắng có thể dùng lò sưởi, lò sấy để thay thế. Lúc rau củ đang dần héo, người làm sẽ vào bếp chuẩn bị nước muối dưa. Đây là khâu quan trọng vì làm nước càng ngon thì món dưa càng đậm đà hơn. Bắc nồi lên bếp, trộn đường, muối và nước mắm rồi đun sôi trong khoảng từ 5 đến 7 phút. Sau đó tắt bếp, chờ cho đến khi nước nguội hoàn toàn. Khi dưa đã héo, nước đã nguội, lần lượt sắp dưa vào những hũ thủy tinh sáng bóng, đổ nước vào hũ sao cho ngập hết phần rau củ, đậy lại và chờ đợi thành phẩm của mình. Dưa muối trong khoảng hai ngày là có thể đem ra để thưởng thức.

Thành phẩm dưa món thành công là sau khi hoàn thành vẫn giữ được màu sắc đẹp của rau củ. Dưa khi vớt ra ăn phải đảm bảo giòn, không quá mềm, thơm ngon, vừa có vị ngọt, vừa có vị chua hấp dẫn.

Món dưa món ăn kèm với bánh chưng, thịt kho, cơm nóng thì còn gì tuyệt vời hơn. Nó không chỉ giúp người ăn đỡ ngán lại vừa đem lại cảm giác thèm ăn bởi vị chua đặc trưng. Dưa món còn là một trong những mồi nhấm nháp cùng chén rượu thơm của các bác, các anh trong ngày đầu họp mặt.

Ngày nay, xã hội càng phát triển, người ta càng chú trọng đến những bữa ăn ngon, những món ăn đắt tiền, sang trọng, nhưng món dưa món vẫn giữ một vị trí quan trọng trong bữa ăn ngày Tết. Nó trở thành một hương vị Tết trong tâm hồn người dân Việt Nam.

Ngày Tết có vô số những món ăn, bánh kẹo trái cây rất ngon. Đối với những món mặn em rất thích thịt kho tàu đậm đà hương vị miền Nam trong những ngày tết nguyên đán.

Tên gọi thịt kho tàu hay còn gọi là thịt kho hột vịt có nguồn gốc từ Trung Quốc thường được nhiều gia đình miền Nam chế biến trong bữa cơm gia đình, ưu điểm là thịt giữ được lâu dùng trong nhiều ngày.

Sau khi hoàn thành sơ chế thịt hãy ướp thịt với gia vị như muối, đường, tỏi, hành tím, ớt, nước mắm… chờ trong 15 phút để gia vị ngấm đều vào thịt mới ngon. Trứng vịt cho vào nồi nước luộc chín, bỏ vỏ. Chuẩn bị một cái nồi, cho nồi lên bếp, đổ dầu ăn vào làm nóng, thịt cho vào nồi xào nhẹ, thêm một ít nước màu và nước mắm vào giúp tạo độ mặn mà cho món thịt kho tàu, đợi khi nào nước sôi lên hãy cho nước dừa rồi trộn đều. Lúc này để ngọn lửa vừa và quan sát khi thịt mềm cho trứng vịt vào nồi, vặn nhỏ lửa và đợi trong khoảng 1- 2 tiếng thịt sẽ chín hoàn toàn.

Món thịt kho tàu thường có trong mâm cơm ngày Tết của người miền Nam, với món thịt kho tàu dùng kèm cơm với dưa kiệu ăn nhiều mà không có cảm giác ngán. Thịt kho tàu chắc chắn là món ăn ngon ngày Tết của nhiều gia đình Việt.

Đối với những người Việt Nam Tết là thời gian quý báu để quay về với những giá trị gia đình và truyền thống, ẩm thực cũng vậy, củ kiệu là món ăn truyền thống ngày Tết của nhiều thế hệ gia đình Việt. Thấy củ kiệu là thấy Tết đang về.

Cũng như Tết phải có bánh chưng bánh giầy, củ kiệu cũng không thể thiếu trong bữa ăn gia đình ngày Tết. Củ kiệu làm không khó nhưng mỗi vùng miền lại có một hương vị riêng. Để có củ kiệu ngon, công đoạn chọn kiệu và ngâm kiệu cực kỳ quan trọng, kiệu nên chọn loại thân vừa phải, đuôi nhỏ và không chọn kiệu trâu vì thân to chứa nhiều nước, khi ăn sẽ bị ngấm nước ăn sẽ không ngon. Kiện sau khi được chọn, rửa sạch, cắt củ, bỏ lá. Để món củ kiệu ngon không thể thiếu các loại củ quả khác đó là cà rốt, củ cải, đu đủ sống,… tất cả đều chọn lựa kĩ, sau đó gọt vỏ, rửa với nước sạch, cà rốt thái sợi, đu đủ thì thái cắt thành từng khúc. Riêng với phần kiệu cho vào nước pha 1 muỗng cà phê phèn chua, ngâm 5 phút, sau đó vớt tất cả ra rổ và mang phơi nắng. Phơi nắng là công đoạn cũng rất quan trọng, nếu phơi quá lâu củ sẽ mất nước, khô héo còn nếu phơi chưa đủ nắng ăn cũng không ngon.

Khi hoàn thành công đoạn phơi nắng là đến lúc pha nước ngâm, chuẩn bị nước mắm, dấm, đường, muối, tất cả trộn đều sau đó cho vào hủ, đừng quên cắt vài lát ớt để món củ kiệu thêm hương vị. Món củ kiệu đã được hoàn thành, bạn và gia đình có thể dùng ngay hoặc chờ sau vài ngày.

Trong cuộc sống hiện đại những món ăn nhiều hương vị xuất hiện ngày càng nhiều nhưng không sao thơm ngon bằng món củ kiệu tự làm, Tết không thể thiếu vắng đi những hủ củ kiệu chua ngọt trong bữa ăn gia đình. Những con người xa quê dù không phải ngày lễ Tết nhìn món củ kiểu cảm thấy nhớ nhung một không khí sum họp của những ngày Tết quê hương.

8 Dàn Ý Bài Văn Thuyết Minh Về Cây Tre Chi Tiết Nhất

Để làm tốt bất cứ đề văn nào, đặc biệt là văn thuyết minh thì khâu đầu tiên và quan trọng nhất sau khi đọc đề chính là lập dàn ý. Lập dàn ý giúp người viết xác định phương thức biểu đạt, nội dung biểu đạt cũng như cách trình bày, giới thiệu, giải thích,… nhằm làm rõ đặc điểm cơ bản của đối tượng. Mời các bạn tham khảo một số dàn ý thuyết minh về cây tre mà chúng mình tổng hợp lại trong bài viết sau.

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 6

1. Mở bài: Giới thiệu chung về cây tre.

2. Thân bài:

a. Nguồn gốc và những đặc điểm của cây tre

– Nguồn gốc: tre là một trong số những loài cây thuộc bộ Hòa thảo, họ tre, thuộc nhóm thực vật nhóm thực vật thân xanh, sống lâu năm

– Tre có nhiều loại khác nhau như tre mạnh tông, tre gai, tre vàng sọc, tre tàu và trúc

– Những đặc điểm cơ bản của cây tre:

+ Rễ chùm, thường sống rất lâu

+ Sống thành từng lũy, từng khóm chứ không sống riêng rẽ từng cây một

+ Thân tre thường cao từ 8 đến 10 mét và thẳng đứng, nhẵn bóng, rỗng ở bên trong và chia thành nhiều đốt khác nhau, mỗi đốt có độ dài khoảng 10 xăng-ti-mét

+ Lá tre dài, mỏng, dẹt và có một đầu nhọn sắc. Màu sắc của lá tre thay đổi theo thời gian.

+ Tre là loài cây có hoa nhưng hoa tre chỉ xuất hiện một lần duy nhất vào cuối đời của cây tre.

b. Vai trò, vị trí và ý nghĩa của cây tre

– Trong những năm tháng kháng chiến ác liệt của dân tộc, tre trở thành người bạn đồng hành, cùng chiến đấu và chúng kiến biết bao hi sinh, mất mát cùng những chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta

– Tre còn là loài cây được sử dụng nhiều trong cuộc sống lao động và sinh hoạt hằng ngày của người dân quê Việt Nam: làm cột kèo trong các ngôi nhà, làm rổ rá, làm giá để đồ, làm chõng, làm máng nước, bờ rào,… và nhiều vật dụng khác trong sản xuất nông nghiệp

– Tre được dùng để chế tác đồ mỹ nghệ thủ công, làm đũa tre, tăm tre. Nhiều sản phẩm sản xuất từ tre đã được xuất khẩu ra nước ngoài, mang lại hiệu quả cao về kinh tế.

– Được nhắc tới nhiều trong các tác phẩm thơ ca và là biểu tượng xuất sắc cho những vẻ đẹp của người dân Việt Nam – đoàn kết, tình nghĩa, kiên cường, giàu ý chí, nghị lực vươn lên.

3. Kết bài: Khái quát về cây tre Việt Nam và nêu cảm nghĩ của bản thân về nó.

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 4

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 6

I. Mở bài: Giới thiệu khái quát về công dụng và mối quan hệ giữa cây tre với người dân Việt Nam.

II. Thân bài:

1. Nguồn gốc.

– Tre có từ lâu đời, từ ngày dựng nước và giữ nước. Tre đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử và đã gắn bó với đời sống nhân dân.

– Tre có mặt khắp đất nước Việt Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đồng bằng đến miền núi.

2. Phân loại.

– Các loại tre: hiện nay tre Việt Nam khá phong phú và đa dạng, có những loại tre sau: tre Đồng Nai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn Điện Biên, nứa, mai hay những khóm tre đầu làng.

3. Đặc điểm tre.

– Tre dễ thích nghi với mọi môi trường sống: bờ ao, khô cằn, sỏi đá…

– Tre thường mọc từng bụi, từng khóm.- Quá trình phát triển của tre: ban đầu tre là những mầm măng nhỏ nằm dưới gốc, được che phủ bởi những cây tre cao và lá cây. Từ từ tre phát triển cứng cáp và dẻo dai.

– Thân tre gầy guộc, được ghép lại từ nhiều mắt, bên trong thân tre ống rỗng.

– Màu sắc của tre: có màu xanh lục, càng lên cao màu xanh của tre càng nhạt.

– Rễ tre thuộc loại rễ chùm, nhìn bề ngoài khá cằn cội nhưng rễ tre bám rất chắc.

– Hoa tre thường rất hiếm, vòng đời của tre sẽ khép lại khi tre “ra hoa”.4. Công dụng của tre.

– Măng tre :

+ Thường được làm thức ăn như : măng chua, măng luộc Nguyễn Bỉnh Khiêm khi về ở ẩn đã có một cuộc sống dân dã :’’Thu ăn măng trúc đông ăn giá’’ Thậm chí Bác Hồ lúc còn hoạt động tại Pắc Bó.’’Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng’’Chứng tỏ măng là một thức ăn thanh đạm luôn có mặt trong đời sống hằng ngày.

– Lá tre.

+ Thường là thức ăn cho gia súc như: trâu, bò, voi…

+ Có thể dùng để ủ hoa quả.

+ Có thể làm ổ cho gia cầm.

+ Là nguyên liệu đốt.

– Cành tre.

+ Có nhiều gai nhọn dùng để làm hàng rào hoặc làm nơi trú ẩn cho tôm, cua, cá.

– Thân tre : Có rất nhiều công dụng.

+ Tre luôn có mặt trong đời sống hằng ngày, là cánh tay phải của người nông dân khi ra đồng.

+ Trong những ngày Tết cổ truyền: tre được dùng làm cây nêu (treo cờ), những chiếc đu được làm từ tre hay món bánh chưng cũng góp mặt của tre giúp món ăn thêm đậm đà bản sắc dân tộc.

+ Là công cụ sản xuất : cối xay tre nặng nề quay.

+ Khi đời sống người dân còn khó khăn, tre được dùng làm để đan nhà che mưa che nắng.

+ Trong chiến đấu, tre là giúp nhân dân đánh bại quân thù bằng: gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù… tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh…

+ Tre hi sinh để bảo vệ cuộc sống con người.

III. Kết bài: Cây tre là biểu tượng của nhân dân Việt Nam. Dù đất nước có công nghiệp hóa – hiện đại hóa đến đâu, cây tre vẫn gắn bó với đời sống nhân dân Việt Nam.

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 4

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 7

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 4

I. Mở bài:

Dẫn dắt (đoạn thơ, ca dao,..). Giới thiệu cây tre Việt Nam (loại cây phổ biến, quen thuộc,…).

1. Khái quát chung về cây tre Việt Nam:

– Loại cây được trồng nhiều trên khắp làng quê nước ta.

III. Kết bài:

Cảm nhận, suy nghĩ của bản thân về cây tre Việt Nam (loài cây thân quen, mang nhiều lợi ích, có ý nghĩa to lớn trong đời sống vật chất và tinh thần,…). Đưa ra lời khuyên (bảo vệ, gìn giữ, quý trọng,…).

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 1

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 7

I. Mở bài: Giới thiệu khái quát về cây tre Việt Nam

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đất nước ta đã đi qua bao nhiêu khó khăn và gian khổ. Có những điều đã đi cùng năm tháng và lãng quên vào quá khứ. Nhưng có những giá trị luôn theo chúng ta trải qua bao năm tháng và ghi dấu trong tâm trí mỗi con người, mỗi người dân Việt Nam. Cây tre là một biểu tượng, một giá trị thể hiện sự trường tồn, bất khuất của dân tộc trải qua bao năm tháng chiến tranh gian khổ, cây tre vẫn tồn tại uy nghiêm và thiêng liêng. Chúng ta cùng đi tìm hiểu về cây tre Việt Nam, sự trường tồn của dân tộc.

1. Nguồn gốc

– Cây tre đã có từ lâu đời, xuất hiện trong các câu chuyện lịch sử của dân tộc ta từ xưa (chuyện Thánh Giong, cây tre trăm đốt,…)

– Tre có mặt khắp đất nước Việt Nam, từ đồng bằng đến miền núi, từ đầu làng, cuối xóm

2. Phân loại tre

Tre có rất nhiều loại, tùy vào vùng miền hay đặc điểm thiên nhiên mà có các loại tre: Tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên, và cả lũy tre thân thuộc đầu làng.…

3. Đặc điểm của tre

– Dễ thích nghi, cây tre có thể mọc khắp mọi nơi

– Tre thường mọc thành từng bụi, từng khóm

– Thân tre gầy, được nối lại bởi nhiều mắt

– Bên trong thân rỗng, mọc ra những cành cây nhỏ

– Tre có lá mỏng và gai nhọn

– Hoa tre thường rất hiếm, vòng đời của tre sẽ khép lại khi tre “ra hoa”.

4. Công dụng của cây tre

– Tre được sử dụng làm các đồ vật như: Gia dụng, nhà, (cột, kèo), làm đũa, làm máng nước, làm rổ rá,

– Vật dụng nông nghiệp (gầu, cán cuốc, cán xẻng)

– Thức ăn: Tre non làm thức ăn (măng). Tre khô kể cả rễ làm củi đun.

– Trong chiến tranh, tre được sử dụng làm vũ khí rất lợi hại (chông tre, gậy, cung tên).

5. Ý nghĩa của cây tre

– Trong văn hóa dân gian: Tre đã đi vào truyện một cách thân thuộc và ý nghĩa:

+ Truyện cổ tích Cây tre trăm đốt

+ Tre già măng mọc

– Trong chiến tranh

+ Từ thời xa xưa thì thánh Gióng đã dùng tre đánh giặc

+ Ngô Quyền đã dùng tre làm chống đánh giặc

+ Thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ tre không thể thiếu trong các cuộc đấu tranh của nhân dân ta

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ về cây tre

Dù đất nước đang trong thời kì phát triển, máy móc hiện đại, thời đại của công nghệ, nhưng cây tre vẫn luôn vươn xa như lớn mạnh cùng đất nước, dù cho thế nào thì cây tre vẫn luôn mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam.

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 8

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 1

A. Mở bài: Giới thiệu khái quát về cây tre

– Tre gồm 5 bộ phận chính: thân tre, lá tre, hoa tre, rễ tre.

+ Thân tre cứng, thẳng, bên trong rỗng, được phân thành nhiều đốt, gọi là đốt tre, giữa các đốt tre gồm các mấu mắt. Trung bình thân tre khi trưởng thành có thể cao khoảng 3-4m, gồm từ 10 đến 20 đốt tùy độ tuổi của tre. Từ thân tre chĩa ra các cành tre nhỏ.

+ Lá tre là loại lá nhỏ, thon, dẹp, thuôn nhọn và sắc về phần đầu.

+ Tre là loài thực vật có hoa, tuy nhiên hoa tre chỉ nở 1 lần duy nhất vào cuối đời. Thường thì tre có thời gian nở hoa từ 5-60 năm 1 lần. Hoa tre có mùi hương thơm nồng, màu vàng nhạt như màu đất.

+ Rễ tre khá to và cứng, bám chắc dưới lòng đất, giúp cây tre mặc dù dài nhưng vẫn có thể đứng thẳng.

– Tre là loài thực vật mọc thành quần thể, gọi là khóm tre, bụi tre chứ không mọc đơn lẻ, riêng biệt từng cây.

2. Luận điểm 2: Lợi ích

– Trong đời sống:

+ Thân tre cứng, to nên được dùng làm các đồ gia dụng, làm nhà, cột, kèo, làm đũa, máng nước, đan lát rổ giá, …

+ Tre non làm thức ăn (gọi là măng).

+ Thân và rễ tre khô làm củi đun

– Trong chiến tranh: Tre được chế tạo thành loại vũ khí thô sơ: chông, gậy, cung tên…

3. Luận điểm 3: Ý nghĩa của hình ảnh cây tre – biểu tượng của đất nước Việt Nam

– Tre là người bạn đồng hành, thủy chung, gắn bó với người dân Việt Nam từ thuở sơ khai, dựng nước, giữ nước.

– Tre đã in bóng mình vào trang văn hóa Việt Nam, trở thành biểu tượng cho sự dũng cảm, kiên cường, bất khuất, đùm bọc yêu thương lẫn nhau,… của ông cha ta.

– Tre không chỉ gắn bó trong đời sống hàng ngày mà còn đi vào thơ ca nhạc họa như một hình ảnh trường tồn trong tiềm thức người dân Việt.

“Tre xanh xanh tự bao giờ

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh” (Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)

C. Kết bài: Khái quát về ý nghĩa của cây tre

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 8

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 2

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 8

– Giới thiệu khái quát về mối quan hệ và công dụng thiết thực của cây tre với người dân Việt Nam

1. Nguồn gốc:

– Cây tre đã có từ lâu đời, gắn bó với người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.

– Tre xuất hiện cùng bản làng trên khắp đất Việt, đồng bằng hay miền núi…

2. Các loại tre:

– Tre có nhiều loại: Tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên, và cả lũy tre thân thuộc đầu làng…

3. Đặc điểm:

– Tre không kén chọn đất đai, thời tiết, mọc thành từng lũy, khóm bụi

– Ban đầu, tre là một mầm măng nhỏ, yếu ớt; rồi trưởng thành theo thời gian và trở thành cây tre đích thực, cứng cáp, dẻo dai

– Thân tre gầy guộc, hình ống rỗng bên trong, màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Trên thân tre còn có nhiều gai nhọn.

– Lá tre mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những gân lá song song hình lưỡi mác.

– Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”…

4. Vai trò và ý nghĩa của cây tre đối với con người Việt Nam:

a. Trong lao động:

– Tre giúp người trăm công nghìn việc, là cánh tay của người nông dân.

– Làm công cụ sản xuất: Cối xay tre nặng nề quay.

b. Trong sinh hoạt:

– Bóng tre dang rộng, ôm trọn và tỏa bóng mát cho bản làng, xóm thôn. Trong vòng tay tre, những ngôi nhà trở nên mát mẻ, những chú trâu mới có bóng râm để nhởn nhơ gặm cỏ, người nông dân say nồng giấc ngủ trưa dưới khóm tre xanh…

– Dưới bóng tre, con người giữ gìn nền văn hóa lâu đời, làm ăn, sinh cơ lập nghiệp.

– Tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp:

+ Khi chưa có gạch ngói, bê tông, tre được dùng để làm những ngôi nhà tre vững chãi che nắng che mưa, nuôi sống con người.

+ Tre làm ra những đồ dùng thân thuộc: Từ đôi đũa, rổ rá, nong nia cho đến giường, chõng, tủ…

+ Tre gắn với tuổi già: Điếu cày tre.

+ Đối với trẻ con ở miền thôn quê thì tre còn có thể làm nên những trò chơi thú vị, bổ ích: đánh chuyền với những que chắt bằng tre, chạy nhảy reo hò theo tiếng sáo vi vút trên chiếc diều cũng được làm bằng tre…

c. Trong chiến đấu:

– Tre là đồng chí…

– Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù.

– Tre xung phong… giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh…

– Tre hi sinh để bảo vệ con người

Cây tre trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Trong đời sống hiện đại ngày nay, chúng ta vẫn không thể rời xa tre.

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 5

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 2

1. Mở bài:

– Từ bao đời nay, cây tre gắn liền với cuộc sống của người dân Việt Nam.

– Tre là loại cây có nhiều đặc điểm đáng quý: sức sống mãnh liệt, dẻo dai, sống được ở nhiều môi trường khác nhau

– Tre có nhiều lợi ích đối với cuộc sống của con người.

2. Thân bài;

a) Giới thiệu về nguồn gốc của cây tre

– Cây tre đã có từ lâu đời. Trong truyền thuyết Thánh Gióng đã xuất hiện hình ảnh cây tre. Thánh Gióng đã dùng tre đánh giặc.

– Cây tre có mặt trên mọi miền đất nước: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ…”

– Tre có mặt trên các con đường của làng quê Việt Nam.

b) Đặc điểm của cây tre

– Tre rất dễ sống, không kén chọn đất đai, thời tiết.

– Tre không sống riêng lẻ mà luôn mọc thành lũy, thành khóm, thành bụi.

– Rễ tre thuộc loại rễ chùm.

– Thân tre hình ống, rỗng bên trong. Thân có màu xanh lục.

– Tre có nhiều cành. Trên cành tre có nhiều gai nhọn.

– Lá tre nhỏ, mỏng và thon nhọn hình lưỡi mác.

– Tre không ra hoa quanh năm. Cả cuộc đời, tre chỉ ra hoa một lần.

c) Tầm quan trọng và giá trị vật chất, tinh thần của cây tre.

– Trong cuộc sống lao động:

3. Kết bài:

– Những đặc điểm đáng quý của cây tre tượng trưng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam.

– Tre là nguồn đề tài vô tận cho những sáng tác nghệ thuật: thơ, ca, họa, nhạc. Bài thơ Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy là một trong những bài thơ hay nhất viết về cây tre.

– Em rất thích được chơi cùng các bạn hoặc được ngồi đọc sách dưới bóng mát của tre.

– Tre sẽ mãi mãi là người bạn thân thiết của người Việt Nam.

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 5

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 3

Dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre số 5

Giới thiệu khái quát và nêu cảm nhận chung về đối tượng thuyết minh: Cây tre.

a. Nguồn gốc của cây tre

– Thuộc tông tre, phân họ tre, thuộc bộ hòa thảo, cùng họ với nhiều loài khác như nứa, vầu, trúc,…

– Thuộc nhóm thực vật thân xanh, có thể sống nhiều năm, còn gọi là cây đa niên và được trồng ở nhiều nơi

b. Phân loại và những đặc điểm chủ yếu của cây tre

– Tre được chia làm nhiều loại khác nhau như tre gai, tre mạnh tông, tre vàng sọc,… và mỗi loại ấy đều có những đặc trưng riêng .

– Những đặc điểm chủ yếu của cây tre:

+ Thân tre:

– Thường cao khoảng 8 đến 10 mét, được chia làm nhiều đốt khác nhau và bên trong thường rỗng

– Màu sắc của thân tre cũng như độ dài của các đốt có thể khác nhau tùy vào từng loại tre.

+ Lá tre:

+ Rễ tre: Rễ chùm

– Tre không sống riêng rẽ từng cây mà nhiều cây tụ lại với nhau, sống thành từng khóm, từng lũy.

c. Công dụng và ý nghĩa của cây tre trong đời sống con người Việt Nam

– Măng tre là một món ăn ngon, quen thuộc của hàng triệu con người Việt Nam từ ngàn xưa cho đến ngày nay.

– Tre là nguồn nguyên liệu quan trọng trong sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ độc đáo

– Tre được sử dụng để tạo ra nhiều vật dụng hữu hiệu và cần thiết trong cuộc sống hằng ngày của con người Việt Nam.

– Trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, tre là vũ khí cùng nhân dân ta đánh đuổi quân xâm lược.

– Tre còn là loài cây biểu tượng cho “cốt cách con người Việt Nam” với nhiều phẩm chất đáng quý và là biểu tượng của làng quê Việt Nam.

3. Kết bài: Nêu cảm nhận, suy nghĩ của em về cây tre.

Đăng bởi: Nguyễn Thị Lệ Huyền

Từ khoá: 8 dàn ý bài văn thuyết minh về cây tre chi tiết nhất

10 Bài Văn Thuyết Minh Về Quyển Sách Giáo Khoa Ngữ Văn Lớp 8 Hay Nhất

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 10

Hôm nay, mẹ đưa em đi mua sách để chuẩn bị cho năm học mới. đi dọc theo những dãy đựng giá sách trải dài theo diện tích của nhà sách, em nhìn thấy rất nhiều những cuốn sách hay và bổ ích. Mỗi cuốn sách lại có những cách trang trí và sắp xếp khác nhau, tạo cảm giác hứng thú cho người mua, người đọc. Sắp vào năm học mới của lớp 8, em đi chọn những cuốn sách giáo khoa và những cuốn sách nâng cao cho cả năm học. Cuốn sách nào em cũng thích nhưng em thích nhất vẫn là cuốn sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 1. Văn là một trong những môn học mà em yêu thích nhất cho nên, cầm cuốn sách trên tay, em cảm thấy mình thật hạnh phúc.

Ngữ văn là một trong những môn học quan trọng nhất đối chúng ta. Đây là môn học sẽ đi theo chúng ta cho tới tận khi chúng ta đã trưởng thành, thậm chí là suốt cả cuộc đời. bởi học văn hóa, học từng lời ăn tiếng nói, học về những tác phẩm văn học đều là những kiến thức thường thức mà chúng ta luôn luôn cần tới và không bao giờ lạc hậu cả. Hiểu càng nhiều thì những nguồn tri thức mà chúng ta có được cũng càng nhiều. và môn ngữ văn cũng có những tác dụng to lớn giúp chúng ta phát triển khả năng đọc viết và phát triển giao tiếp một cách hoàn thiện nhất.

Cuốn sách giao khoa ngữ văn là một trong những cuốn sách do nhà Xuất bản giáo dục phát hành dưới sự cho phép của Bộ giáo dục và đào tạo. Nhìn từ bên ngoài, cuốn sách hiện lên nổi bật với dòng chữ” Ngữ văn lớp 8” tập 1trên nền sách màu hồng nhạt. phía bên trên của cuốn sách là dòng chữ màu đen nho nhỏ “ Bộ giáo dục và đào tạo”. Giữa cuốn sách có những bông hoa màu vàng, làm cho cuốn sách trở nên bắt mắt và đẹp hơn giữa rất nhiều những cuốn sách khác, giúp chúng ta dễ dàng phân biệt được hơn. Lật lại đằng sau. Ta thấy được những hình ảnh lô go của nhà xuất bản giáo dục và đào tạo cùng với tem chống hàng giả trên thị trường.

Phần tiếng việt của cuốn sách, chúng ta tiếp tục được học về những biện pháp tu từ cơ bản và được sử dụng nhiều như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,… cũng như việc học những từ tượng hình, từ tượng thanh, từ láy,… giúp ích cho việc chúng ta làm văn và hiểu ý nghĩa của những tác phẩm văn học một cách sâu sắc hơn. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ được ôn tập thêm những kiến thức về từ loại, câu ghép, dấu câu,…Phần tập làm văn chúng ta được học dạng văn thuyết mình. Đây là một dạng văn mới, em cũng rất mong chờ cho tới lúc được học để có thể áp dụng cho những bài văn của mình được thêm phần phong phú và chất lượng.

Tóm lại, em rất mong chờ cho tới lúc được học những kiến thức của cuốn sách. Học những kiến thức ấy, em không chỉ có những kiến thức mà còn tạo ra những kĩ năng mà bản thân của em sẽ được học vfa luyện tập. đây là một trong những cuốn sách hay, nó giúp cho người học có được những kiến thức nền tảng một cách chắc chắn nhất.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 9

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 10

Trong hoạt động dạy của giáo viên cũng như hoạt động học của học sinh, không chỉ cần các yếu tố chủ thể như người giáo viên, học sinh mà còn cần đến sự hỗ trợ của rất nhiều các yếu tố khác như: không gian học, các phương tiện hỗ trợ như: bảng, phấn, bàn học, ghế …và một vật dụng không thể thiếu, đảm bảo quá trình dạy và học có thể diễn ra thuận lợi, suôn sẻ và hiệu quả, đó là sách vở. Sách là phương tiện hữu ích và không thể thiếu đối với mỗi học sinh, bởi không chỉ tiếp thu những tri thức thông qua lời giảng gải của giáo viên mà học sinh còn cần có sách vở để mở rộng tri thức cũng như củng cố những tri thức đã học. Như bao cuốn sách khác, sách giáo khoa Ngữ văn lớp tám tập một cũng là một quyển sách vô cùng hữu ích đối với hoạt động học của học sinh.

Sách giáo khoa là cuốn sách do bộ giáo dục và đào tạo biên soạn theo nội dung, chương trình dạy và học của giáo viên và học sinh của các cấp. Theo đó, nội dung trong các cuốn sách giáo khoa phải đẩm bảo các tiêu chí sau. Thứu nhất, đó là về tính chính xác, khoa học, nghĩa là những kiến thức, nội dung được đưa vào trong chương trình dạy phải đảm bảo tính chuẩn xác về kiến thức, là những kiến thức đã được các nhà khoa học ở Việt Nam cũng như trên thế giới kiểm chứng về tính chuẩn mực của nó. Thứ hai, đó chính là tính phù hợp với trình độ tiếp nhận của học sinh từng lứa tuổi, bởi lẽ không đảm bảo tính vừa trình độ, kiến thức đưa vào dễ qua hoặc khó quá thì sẽ không mang lại hiệu quả giáo dục cao, học sinh sẽ lơ là hoặc cảm thấy áp lực trong hoạt động học.

Yếu tố thứ ba nữa đó chính là nội dung đưa vào phải chứa đựng kiến thức, cùng với đó là những nội dung mang tính giáo dục cao để học sinh không chỉ biết tiếp thu mà còn biết thực hành, không chỉ học những lí thuyết suông mà còn biết vận dụng vào trong đời sống thực tiến. Trên cơ sở tiền đề vừa nêu, tôi nhận thấy quyển sách giáo khoa ngữ văn lớp tám tập một đảm bảo được đầy đủ những yêu cầu đó, không chỉ về mặt nội dung mà cả về mặt hình thức đều được đảm bảo.

Sách giáo khoa ngữ văn lớp tám tập một do nhà xuất bản giáo dục xuất bản, tùy nhu cầu sử dụng của học sinh và giáo viên mà nhà xuất bản sẽ tiến hành những lần xuất bản khác nhau, và thờ gian xuất bản, lần xuất bản cũng được ghi chú rõ trong trang cuối của mỗi quyển sách giáo khoa này, chẳng hạn như cuốn sách giáo khoa của tôi được xuất bản lần thứ sáu, vào tháng bảy năm hai ngàn không trăm mười lăm. Về cơ bản, nội dung cuốn sách giáo khoa ngữ văn đều được giữ nguyên, cả về hình thức cũng vậy. Do đó mà các lần xuất bản khác nhau chỉ khác nhau ở ghi chú thời gian, còn nội dung và hình thức được đảm bảo tuyệt đối. Nếu hi hữu lắm có sự thay đổi thì có lẽ đó là ở chất lượng giấy.

Quyển sách giáo khoa ngữ văn lớp tám tập một của tôi có màu sắc sáng hơn so với đứa bạn cùng bàn. Tuy nhiên, về cơ bản thì nội dung vẫn được giữ nguyên. Cuốn sách giáo khoa ngữ văn lớp tám có chiều dài là hai mươi cen ti mét và chiều rộng khoảng mười cen ti mét, độ dày của cuốn sách cũng rất phù hợp, không dày quá mà cũng không mỏng quá. Về cấu tạo hình thức bên ngoài đều rất thuận tiện, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của học sinh cũng như giáo viên. Ở cuối mỗi cuốn sách giáo khoa lớp tám tập một đều có dán tem của bộ giáo dục và đào tạo, đó chính là sự xác nhận cho học sinh cũng như phụ huynh biết được đó chính là do bộ giáo dục biên soạn, tránh được những trường hợp, các cơ sở in ấn bên ngoài sản xuất lậu, tạo ra những quyển sách không có nguồn gốc, xuất sứ rõ ràng.

Giá của cuốn sách giáo khoa ngữ văn lớp tám tập một cũng được in rõ ở ngay cuối của bìa sách, ở dìa ngoài cùng của bên tay phải. Và giá của cuốn sách này là mười hai nghìn năm trăm đồng. Quyển sách giáo khoa ngữ văn lớp tám này cũng như bao quyển sách giáo khao khác vì được bộ giáo dục hỗ trợ giá nên giá trị của nó rất vừa phải, ai cũng có thể mua để sử dụng. Đấy là về mặt hình thức, còn về mặt nội dung của quyển sách giáo khoa ngữ văn lớp tám cũng rất phù hợp đối với trình độ của học sinh, quyển sách này bao gồm các đơn vị kiến thức mới, ví dụ như phần tập làm văn sẽ có các bài văn về nghị luận xã hội, thuyết minh về một vật hay về một sự kiện, địa danh nào đó. Về phần văn thì có các văn bản chức năng thuộc các thể loại nhưu chiếu, cáo, biểu. Ví dụ như các văn bản: Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi…

Quyển sách giáo khoa ngữ văn lớp tám tập một không chỉ được đảm bảo về hình thức bên ngoài mà ngay những nội dung được đưa vào cũng đảm bảo tính mới mẻ, kiến thức, nội dung đảm bảo tính vừa sức, chuẩn mực. cũng vì vậy mà học sinh lớp tám sẽ được học những đơn vị kiến thức của môn ngữ văn lớp tám đầy bổ ích.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 9

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 8

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 9

Sách là một dụng cụ không thể thiếu đối với học sinh và thầy cô giáo khi đến trường. Quyển sách Ngữ văn lớp 8, tập 1 đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập của học sinh. Nó là một công cụ học tập, một sợi dây kết nối giữa học sinh và giáo viên, học sinh và tác phẩm,…

Không như các đồ vật khác, quyển sách Ngữ Văn 8, Tập1 do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành hàng năm dưới sự cho phép của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sách được tái bản nhiều lần mỗi năm. Sách được sử dụng để giảng dạy và học tập trong học kì 1, lớp 8. Trong lịch sử, sách Ngữ văn lớp 8, tập 1 được biên soạn nhiều lần, có bổ sung sửa đổi cho phù hợp với từng thời đại. (Thuyết minh sách giáo khoa Sách Ngữ Văn). Để có được một quyển sách với nội dung hoàn chỉnh phải trải qua nhiều công đoạn rất công phu. Quyển sách ra đời là kết quả nghiên cứu mệt mài của rất nhiều giáo sư, tiến sĩ hàng đầu trong chuyên ngành và sự góp sức của các thầy giáo có kinh nghiệm trong cả nước. Chế bản do Công ty cổ phần thiết kế và phát hành sách giáo dục đảm nhận. Sắp tới, năm 2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo dự định sẽ thay đổi toàn bộ sách giáo khoa hiện hành. Nghĩa là chúng ta sẽ có một quyển sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1 hoàn toàn mới. Do nhiều lí do khách quan, kế hoạch đổi sách giáo khoa bị hoãn lại.

Từ phía góc dưới đến giữa quyển sách là khóm hoa vàng lá màu xanh dương tạo nên nét hài hòa thật bắt mắt. Đầu trang bìa là dòng chữ: Bộ giáo dục và Đào tạo. Logo Nhà xuất bản Giáo dục đặt ở phía bên phải cuối bìa. Thật tinh tế khi các nhà thiết kế chọn màu hồng phấn làm nền cho bìa. Nó rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 8 đang độ mộng mơ, hồn nhiên và vô cùng nhạy cảm với thế giới xung quanh.

Bìa sau của sách có nền màu trắng. Hai bên trái, phải ở trên cùng lần lượt in hình Huân chương Hồ Chí Minh và Vương miệng kim cương chất lượng quốc tế, biểu tượng cho tinh thần cao quý và chất lượng của quyển sách. Bên dưới là tên các loại sách thuộc các môn học khác nằm trong chương trình lớp 8 được in với màu đen đặc sắc trên một khung nền màu hồng phấn như: Ngữ Văn 8 (tập một, tập hai), Lịch sử 8, Địa lí 8, Giáo dục công dân 8, Âm nhạc và Mĩ thuật 8, Toán 8 (tập một, tập hai),…, Tiếng nước ngoài (Tiếng Anh 8, Tiếng Nga 8…).

Dưới cùng, nằm bên gốc phải là tem đảm bảo và giá bán. Góc bên trái là mã vạch sản phẩm để kiểm định sản phẩm. Hình thức trang bìa trang nhã, bố cục cân xứng, hài hòa, màu sắc bắt mắt chính là điểm nhấn nổi bậc của quyển sách này. Quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8, tập 1 thật sự phù hợp với học sinh lớp 8.

Sách có cấu tạo ba phần: Văn bản, Tiếng Việt và làm văn. Ngoài ra còn có phần giới thiệu chương trình và phần lí luận văn học. * Phần văn bản: Gồm các văn bản văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, văn bản văn học nước ngoài, văn bản nhật dụng: Văn bản văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 gồm các phẩm: “Tôi đi học” (Thanh Tịnh), “Trong lòng mẹ” (trích “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng), “Lão Hạc” (trích “Lão Hạc”– Nam Cao), “Tức nước vỡ bờ” (trích “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố), “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” (Phan Bội Châu), “Đập đá ở Côn Lôn” (Phan Chu Trinh), “Muốn làm thằng cuội” (Tản Đà), “Hai chữ nước nhà” (Trần Tuấn khải).

Tác phẩm văn học Việt Nam có vai trò bồi dưỡng tình yêu con người, tình yêu cuộc sống, nâng cao tinh thần yêu nước cho mỗi học sinh. Đồng thời, mỗi văn bản là một bài ca đầy rung cảm của con người trước những biến động đổi thay của cuộc đời, gây cho ta niềm cảm thông sâu sắc. Phần văn bản văn học nước ngoài bao gồm các tác phẩm xuất sắc của các nhà văn nổi tiếng thế giới: “Cô bé bán diêm” ( Andecxen), “Đánh nhau với cối xay gió” ( trích Đôn-ki-hô-tê) – Xecvantec, “Chiếc lá cuối cùng” (Trích) – O.Henri, “Hai cây phong” (trích “Người thầy đầu tiên”) – Ai-ma-tốp.

Đây là những tác phẩm được các nhà biên soạn cân nhắc và lựa chọn kĩ càng. Nội dung phù hợp với nhận thức học sinh lớp 8. Mỗi văn bản là một mảng màu về cuộc sống khắp nơi trên thế giới. Thông qua cuộc đời và số phận của nhân vật giúp học sinh thêm thấu hiểu, cảm thông và biết trân trọng giá trị con người. Từ đó tìm thấy tiếng nói chung trong hành trình đấu tranh bảo vệ quyền sống của con người trên khắp thế giới. Phần văn bản nhật dụng đề cập đến những vấn đề gần gũi, nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay: Thông tin về ngày trái đất năm 2000, Ôn dịch thuốc lá, Bài toán dân số. Văn bản nhật dụng giúp học sinh nhân thức rõ ràng và sâu sắc các vấn đề đang xảy ra xung quanh ta. Thông điệp ở mỗi văn bản thúc giục con người chung tay hành động bảo vệ cuộc sống.

Nhận xét: Các văn bản văn học là nhưng tác phẩm văn học xuất sắc của Việt Nam và thế giới. Đó là những rung cảm tinh tế trong tâm hồn. Mỗi tác phẩm là tiếng nói đồng cảm đối với những số phận bất hạnh. Đó là nỗi khổ đau cùng cực trong cuộc đời người (Lão Hạc, Trong lòng mẹ,..). Đó là tiếng thét gọi đòi quyền sống của con người trong thời đại tối tăm (Tức nước vỡ bờ, …). Đó là bản cáo trạng tố cáo bộ mặt tàn ác của xã hội bất nhân chà đạp lên quyền sống của con người (Tức nước vỡ bờ,..). Đó là khát vọng vươn lên giành lấy sự sống; là bản trường ca ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn con người lương thiện nhưng khổ đau (lão Hạc, Tức nước vỡ bờ,… Tác phẩm gây cảm động sâu sắc, tác động mãnh liệt vào tâm hồn nhằm khơi dậy lòng trắc ẩn thương người của mỗi học sinh.

Ở phần Tiếng Việt, học sinh sẽ được mở mang thêm nhiều kiến thức với nhưng bài học vô cùng bổ ích như: Cấp độ khái quát của từ ngữ, Trường từ vựng, Từ tượng hình – Từ tượng thanh, Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội, Trợ từ – Thán từ, Tình thái từ, Chương trình địa phương (Phần Tiếng Việt), Nói quá, Nói giảm – Nói tránh, Câu ghép, Dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm, Dấu ngoặc kép, Ôn luyện về dấu câu,… Đây là phần tiếp nối chương trình Tiếng Việt ở lớp 7. Với sự phong phú của bài học, cộng với sự biên soạn đơn giản mà sâu sắc, giúp học sinh có thể vận dụng tốt tiếng Việt trong bài viết tập làm văn. Đặc biệt là văn miêu tả và giao tiếp hằng ngày một cách thiết thực và hiệu quả. Những bài học tiếng Việt khắc sâu kiến thức về Tiếng Việt. Kết hợp với các bài học về dấu câu, biện pháp tu từ sẽ bồi dưỡng và nâng cao khả năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh. Thấy được vẻ đẹp của Tiếng Việt, học sinh càng thêm yêu mến tiếng nói dân tộc mình.

Ở phần này, chúng ta đã được rèn luyện, củng cố nâng cao một số kĩ năng trong quá trình tạo lập văn bản như: xây dựng bố cục, xây dựng đoạn văn, liên kết đoạn văn. Chương trình Tập làm văn 8 sẽ được nâng cao trên một vài phương diện. Sự kết hợp phương thức biểu đạt tự sự, nghị luận mà chúng ta đã được học qua với phương thức biểu đạt khác như miêu tả, biểu cảm sẽ tạo nhiều điều kiện để ta đọc – hiểu văn bản làm cơ sở để đi vào nghiên cứu phương thức biểu đạt thuyết minh. Đây là kiểu văn bản lần đầu được dạy trong nhà trường ở Việt Nam. Tuy không xuất hiện nhiều trong lĩnh vực văn chương nhưng lại hết sức thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống. Phần làm văn thuyết minh hình thành và rèn luyện học sinh cách thuyết minh một sự vật, hiện tượng trong cuộc sống theo tri thức khoa học khách quan và chuẩn xác.

Phần tập làm văn giúp học sinh tiếp tục củng cố và rèn luyện năng lực viết văn biểu cảm. Học sinh biết thể hiện tình cảm, cảm xúc, tình yêu mến của mình trước cuộc sống bằng những câu văn. Văn biểu cảm phát huy năng lực tưởng tượng và sáng tạo, tái hiện hiện thực cuộc sống bằng ngôn ngữ của riêng mình. Kết hợp với tính chuẩn xác của văn thuyết minh tạo cho học sinh khả năng biểu đạt chính xác hơn các vấn đề trong đời sống. Đây chính là bước đệm quan trọng trong hình thành và củng cố năng lực sử dụng ngôn ngữ và thiết lập văn bản cho học sinh, sẵn sàng làm tốt các bài văn nghị luận văn học khi lên lớp 9.

Trước hết, quyển sách Ngữ văn lớp 8, tập 1 chính là một dụng cụ học tập hiệu quả mà mỗi học sinh lớp 8 đều cần có. Qua việc lựa chọn tỉ mẫn của các nhà biên soạn, quyển sách giúp học sinh tiếp cận với những tác phẩm văn học nổi tiếng được truyền qua nhiều thế hệ. Từ đó mới thấy được chân giá trị của nghệ thuật. Đối với người học văn, nó còn làm cho tâm hồn ta bay bổng, thanh thản, nhẹ nhàng hơn để giảm bớt đi những áp lực nặng nề của cuộc sống. Hơn nữa, sách còn mang ý nghĩa giáo dục to lớn, rèn luyện cho ta nhiều kiến thức trong việc giao tiếp hàng ngày dù là thể hiện dưới mọi hình thức. “Có đam mê đọc sách mới thấy được những giá trị tiềm tàng của sách” “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ” (M.Gorki). Thật vậy, câu nói này đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ và nó vẫn còn mang ý nghĩa tồn tại trong mọi thời đại. Quyển sách là người thầy, người bạn luôn kề cận với học sinh. Và mỗi khi đến giờ học văn, quyển sách lại được trân trọng đặt lên bàn. Từng bài học đi qua càng làm cho tâm hồn ta thêm yêu cuộc đời, thêm quý trọng tri thức. Nó nhắc nhở ta về bổn phận và trách nhiệm cao cả trong cuộc sống này.

Quyển sách Ngữ Văn 8, tập 1 không thể thiếu trong chương trình lớp 8. Hãy yêu mến sách, hãy trân trọng sách hơn nữa. Bởi trân trọng sách là thể hiện sự trân trọng tri thức và lòng biết ơn sâu sắc các thế hệ cha anh đã dày công tích lũy tri thức cho chúng ta thừa hưởng hôm nay.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 7

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 8

Sách giáo khoa ngữ văn lớp 8 tập 1 cũng như bao loại quyển vở khác đều có bìa bên ngoài để bảo vệ những trang giấy bên trong quyển sách được trang trí bằng những hình ảnh đẹp, Mặt bìa bên ngoài trang đầu có màu hồng giống như màu lòng tôm. Phía trên bìa là hàng chữ đầu tiên viết bằng chữ in hoa ” BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO”. Tiếp đến là hai chữ ” ngữ văn” được viết bằng chữ in với những nét viết mềm mại, uyển chuyển được tô bằng màu xanh đậm. Dưới hai chữ đó là chữ” TẬP MỘT” được viết bằng chữ in nhưng nét chữ nhỏ, thanh màu hồng đậm để phân biệt tập một với tập hai.Phía góc bên phải dưới dòng chữ “Ngữ văn” là số “8” to, màn trắng làm nổi bật cả trang bìa.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 6

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 7

Trên chặng đường học tập, ngữ văn là môn học không thể thiếu đối với chúng ta. Nó giúp ta phát triển khả năng đọc viết, giao tiếp một cách toàn diện. Và một phần không thể thiếu khi học Ngữ văn chính là Sách giáo khoa (SGK). Nội dung chương trình trong sách giáo khoa các lớp như một mắt xích. Mỗi năm gắn kết chặt chẽ với nhau. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 tập 1 là phần rất quan trọng trong quá trình học Ngữ văn lớp 8.

Quyển SGK Ngữ Văn 8, tập 1 do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành dưới sự cho phép của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sách in xong và nộp lưu chiểu năm 2009. Lần tái bản gần nhất là in cho năm học này. Sách giáo khoa Ngữ Văn 8 – tập 1 là kết quả nghiên cứu của tập thể các giáo sư, tiến sĩ hàng đầu Việt Nam. Công việc được tiến hành dưới sự chỉ đạo và giám sát, kiểm tra của Bộ giáo dục và Đào tạo Việt Nam.

Về phần biên soạn nội dung do Nguyễn Khắc Phi làm tổng chủ biên. Phần Văn bản do Nguyễn Hoành Khung chủ biên. Phần Tiếng Việt do Nguyễn Minh Thuyết làm chủ biên. Phần Tập làm văn do Trần Đình Sử làm chủ biên. Về phần bìa sách do Trần Tiểu Lâm thiết kế bìa và trình bày minh họa nội dung. Ban biên tập nội dung gồm Kim Chung, Ngọc Khang, Hiền Trang. Chịu trách nhiệm xuất bản là tổng giám đốc Nhà xuất bản Giáo dục Ngô Trần Ái và phó tổng giám đốc Nguyễn Quý Thao. Sách được biên soạn và ấn hành từ năm 2009. Nhưng hằng năm quyển sách được chỉnh sửa và tái bản với số lượng lớn để phục vụ nhu cầu học tập và giảng dạy của học sinh và giáo viên trên cả nước.

Cũng như các sách giáo khoa khác, về căn bản, Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 8 – tập 1 bao gồm bìa trước, bìa sau và phần nội dung bên trong. Bìa trước màu nền hồng phấn, nổi bật lên dòng chữ: Ngữ Văn 8 – tập 1 được tô màu xanh dương. Đầu trang bìa là dòng chữ in hoa Bộ giáo dục và Đào tạo. Từ phía góc dưới đến giữa quyển sách là khóm hoa vàng lá màu xanh dương. Với họa tiết đơn giản, gần gũi, tạo nên nét hài hòa thật bắt mắt. Cuối bìa sách là lô gô và tên hiệu của nhà xuất bản.

Bìa sau có nền màu trắng nhạt. Bên dưới là tên các loại sách thuộc các môn học khác nằm trong chương trình lớp 8. Khung chữ được in với màu đen đặc sắc trên một khung nền màu hồng phấn. Dưới cùng, nằm bên gốc phải là tem đảm bảo và giá bán. Ở góc bên trái là mã vạch sản phẩm. Giá bán có thể thay đổ theo từng năm. Thường thì giá bán Sách giáo khoa đã được nhà nước hỗ trợ nên rất rẻ. Toàn bộ quyển sách không tính trang bìa là 176 trang. Bìa sách in trên giấy mền phủ mờ theo khổ giấy là 17 x 24 cm.

Đối với một quyển sách, nội dung bên trong là quan trọng nhất. SGK Ngữ văn lớp 8 – tập 1 có cấu tạo ba phần: Văn bản, Tiếng Việt và làm văn. Ngoài ra còn có phần giới thiệu chương trình và phần lí luận văn học. Phần văn bản gồm các văn bản văn học Việt nam, văn bản văn học nước ngoài, văn bản Nhật dụng. Văn bản văn học Việt Nam gồm truyện ngắn Tôi đi học (Thanh Tịnh); đoạn trích Trong lòng mẹ (trích “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng); truyện ngắn Lão Hạc (trích “Lão Hạc” – Nam Cao); đoạn trích Tức nước vỡ bờ (trích “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố); bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác (Phan Bội Châu) (Đập đá ở Côn Lôn (Phan Chu Trinh); bài thơ Muốn làm thằng cuội (Tản Đà); bài thơ Hai chữ nước nhà (Trần Tuấn Khải).

Các văn bản văn học nước ngoài cũng được giới thiệu với một vài tác giả nổi bậc của thế giới như truyện ngắn Cô bé bán diêm (Andecxen); tiểu thuyết phiêu lưu Đánh nhau với cối xay gió ( trích Đôn-ki-hô-tê – Xecvantec); truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng (O.Henri); truyện ngắn Hai cây phong (trích “Người thầy đầu tiên” – Ai-ma-tốp). Các văn bản văn học là nhưng tác phẩm văn học xuất sắc của Việt Nam và thế giới. Các văn bản văn học Việt Nam là những sáng tác trong giai đoạn trước 1945. Phần văn bản đảm nhận nhiệm vụ bồi dưỡng và giáo dục tình yêu con người, tình yêu cuộc sống, biết rung động và cảm thông trước những số phận bất hạnh, đáng thương trong cuộc đời. Đồng thời cũng tố cáo những bất công, áp bức trong xã hội, là tiếng thét đời quyền sống, khát vọng sống lương thiện, hạnh phúc của con người.

Phần văn bản nhật dụng với những bài viết đề cập đến các vấn đề nóng bỏng, cấp thiết của thế giới như bài viết Thông tin về ngày trái đất năm 2000; Ôn dịch thuốc lá; Bài toán dân số. Đây là ba vấn đề mà thế giới đang đối mặt với những khó khăn vô cùng to lớn. Ở phần Tiếng Việt, học sinh sẽ được mở mang thêm nhiều kiến thức với những bài học vô cùng bổ ích. Toàn bộ chương trình tiếng việt được biên soạn phù hợp với cấp độ nhận thức của học sinh.

Các bài học về từ ngữ được giới thiệu khá đầy đủ như Cấp độ khái quát của từ ngữ; Trường từ vựng, Từ tượng hình – Từ tượng thanh; Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội; Trợ từ – Thán từ, Tình thái từ. Các phép tu từ tiếp tục chương trình ở lớp 7 như phép Nói quá; phép Nói giảm – Nói tránh. Về ngữ pháp, học sinh được học các bài về Câu ghép; Dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm; Dấu ngoặc kép. Phần Tiếng Việt đảm nhận vai trò củng cố và nâng cao kĩ năng sử dụng từ, kết cấu câu và kết cấu văn bản. Một phần khác giúp các em nhận diện loại từ, giúp các học sinh vận dụng hiệu quả vào việc diễn đạt trong các bài tập làm văn.

Tiếp tục chương trình tập làm văn ở lớp 7, chương trình tập làm văn lớp 8 củng cố và nâng cao kĩ năng viết bài văn miêu tả, bài tập làm văn kể chuyện có yếu tố biểu cảm tạo cơ sở để làm bài văn thuyết minh về đồ vật. Lý thuyết tập làm văn tập trung vào các nội dung như xây dựng bố cục bài văn, xây dựng đoạn văn, liên kết đoạn văn,… Phần này giúp học sinh biết cách viết đoạn văn và liên kết chúng thành một bài văn hoàn chỉnh. Ngoài ra, kiểu bài văn nghị luận về một đạo lí tư tưởng và nghị luận về các hiện tượng trong cuộc sống cũng tiếp tục được rèn luyện. Chủ đề tập trung vào các vấn đề nóng bỏng đang xảy ra trong cuộc sống nhằm giúp học sinh biết quan sát và có cái nhìn thực tế, biết nhận xét, phán đoán, bàn luận và đưa ra những hành động thiết thực, hữu ích.

Trước hết, SGK Ngữ Văn lớp 8 – tập 1 là một công cụ học tập không thể thiếu của học sinh. Đây cũng là một công cụ giảng dạy của giáo viên trong học kì 1 của mỗi năm học. Thông qua quyển sách giáo khoa, giáo viên và học trò gắn kết nhau qua mỗi bài học thực sự ý nghĩa và hữu ích, từng bước nâng cao năng lực cảm thụ văn bản văn học, năng lực sử dụng ngôn ngữ thành thạo và chuẩn xác trong giao tiếp, năng lực viết một bài văn hoàn chỉnh.Các văn bản văn học đều là những tác phẩm xuất sắc của nền văn học Việt Nam và các nước trên thế giới. Mỗi tác phẩm mở ra một chân trời rộng lớn về thế giới tâm hồn con người, cho ta phát hiện và trân trọng những giá trị ẩn sâu trong con người mà hằng ngày đã bị cuộc sống đời thường che lấp.

Hãy luôn trân trọng sách, quý trọng những gì sách đã mang lại trong đời sống của chúng ta. Dù các năm học sau không còn sử dụng quyển SGK này nữa nhưng những gì chúng ta tiếp thu được từ trong sách mãi mãi là hành trang quý giá theo ta đến suốt cuộc đời.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 6

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 5

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 6

Một trong những hành trang không thể thiếu cho quá trình học tập của người học sinh đó chính là những quyển sách giáo khoa. Sách giáo khoa là sản phẩm của tri thức, được ra đời nhằm hỗ trợ việc học, cung cấp kiến thức cho người học. Sách được biên soạn vào mục đích giảng dạy tại trường học, thể hiện nội dung cụ thể của chương trình phổ thông. Quyển sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1 là một trong những quyển nằm trong bộ sách giáo khoa dành cho môn Ngữ văn.

Tất cả sách giáo khoa đều là sự cụ thể hóa của chương trình học, để xuất bản ra một quyển sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1 sẽ phải có một hội đồng biên soạn chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo thành lập với nhiều giáo sư chuyên ngành Ngữ văn. Sau khi biên soạn chương trình phải trải qua quá trình thẩm định và kiểm tra kỹ lưỡng trước khi thông qua và đem vào giảng dạy thử nghiệm. Trải qua thử nghiệm Nhà xuất bản Giáo dục sẽ là đơn vị chuyên trách in ấn và phát hành sách sử dụng đại trà. Quyển sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1 có hình chữ nhật đứng độ dày khoảng 1cm với kích thước 17cm x 24cm gồm tất cả 167 trang.

Sách nổi bật với bìa trước màu hồng phấn và khóm hoa màu xanh vàng in trên bìa, trên đầu sách là tên “Bộ Giáo dục và Đào tạo”, tên sách “Ngữ văn” màu tím than được viết to, số 8 màu trắng và góc dưới bên phải bìa là logo và tên “Nhà xuất bản giáo dục”. Bìa sau của sách có hình Huân chương Hồ Chí Minh, logo của bộ giáo dục và bảng danh sách các quyển sách giáo khoa trong chương trình lớp 8. Giấy in sách có màu hơi sậm chống lóa và mỏi mắt cho học sinh, chữ hoàn toàn là màu đen chỉ khác nhau về kích cỡ chữ ở các đề mục, mọi câu chữ đều chính xác và chuẩn chỉ đến từng dấu chấm, dấu phẩy. Nội dung trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1 là một kho tàng văn học khá phong phú bao gồm ba phần lớn đó là văn bản, tiếng Việt và tập làm văn.

Sách giáo khoa nói chung và sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1 nói riêng là công cụ học tập quan trọng, cần thiết của mỗi người học sinh chúng ta, chính vì vậy mọi người phải có ý thức sử dụng đúng mục đích, tự giác giữ gìn cẩn thận không để dính nước làm rách nát, quăn mép, nên bọc vở bằng báo hoặc bìa cứng để sau khi học xong còn để lại làm tư liệu hoặc cho các em lớp sau.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 4

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 5

Sách là người bạn đồng hành quen thuộc với con người. Trong suốt sự học cả đời của mỗi người, sách chính là trợ thủ đắc lực nhất. Một trong những cuốn sách đến với chúng ta đầu tiên khi còn đi học là sách giáo khoa. Nói về sách giáo khoa, bạn biết gì về sách Ngữ văn 8 tập 1 mà chúng mình vẫn học?

Sách Ngữ Văn 8 – Tập 1 là một trong bộ sách giáo khoa đưa vào giảng dạy chính cho môn Ngữ Văn lớp 8 trong học kỳ một. Nhà xuất bản Giáo dục phát hành sách dưới sự cho phép của Bộ Giáo dục và đào tạo. Sách được tái bản nhiều lần qua các năm để thay đổi phù hợp hơn với chương trình học. Sách ra đời có nội dung hoàn chỉnh phải trải qua nhiều công đoạn công phu. Đó là kết quả nghiên cứu mệt mài của rất nhiều giáo sư, tiến sĩ hàng đầu trong chuyên ngành và sự góp sức của các thầy cô dạn dày kinh nghiệm trên cả nước. Nổi bật trong số đó phải kể đến Nguyễn Khắc Phi (tổng chủ biên), Nguyễn Hoành Khung (Chủ biên phần Văn), Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt), Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn)…Chế bản do Công ty cổ phần thiết kế và phát hành sách giáo dục đảm nhận.

Bìa sau của sách có nền trắng đơn giản. Phía trên cùng lần lượt in hình Huân chương Hồ Chí Minh và Vương miện kim cương chất lượng quốc tế, biểu tượng cho tinh thần cao quý của dân tộc và chất lượng sách. Phía dưới in tên các loại sách thuộc các môn học trong chương trình lớp 8 bằng màu đen: Ngữ Văn 8 (tập một, tập hai), Lịch sử 8, Địa lí 8, Giáo dục công dân 8, Âm nhạc và Mĩ thuật 8, Toán 8 (tập một, tập hai),…, Tiếng nước ngoài (Tiếng Anh 8, Tiếng Nga 8…). Góc phải dưới cùng dán tem đảm bảo và giá bán. Góc trái là mã vạch sản phẩm. Cả cuốn sách trang trí đơn giản mà rất sinh động.

Sách Ngữ Văn 8 tập 1 là quyển sách nối tiếp từ lớp 6, lớp 7 với hệ thống 17 bài, tương ứng với 17 tuần học. Mỗi bài lại gồm 4 bài nhỏ cung cấp tri thức phong phú, hoàn thiện. Về nội dung, sách có cấu tạo 3 phần gồm Văn bản, Tiếng Việt và làm văn. Ngoài ra còn có phần giới thiệu và phần lí luận văn học.

Phần cơ bản nhất là phần Văn bản, là hệ thống các văn bản văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, văn bản văn học nước ngoài, văn bản nhật dụng. Văn bản văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 được lựa chọn các tác phẩm “Tôi đi học” (Thanh Tịnh), “Trong lòng mẹ” (trích “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng), “Lão Hạc” (trích “Lão Hạc”– Nam Cao), “Tức nước vỡ bờ” (trích “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố), “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” (Phan Bội Châu), “Đập đá ở Côn Lôn” (Phan Chu Trinh), “Muốn làm thằng cuội” (Tản Đà), “Hai chữ nước nhà” (Trần Tuấn khải). Văn học giai đoạn này ra đời giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 nên đó là những câu chuyện về đời sống của nhân dân Việt Nam, khát khao sống và chiến đấu. Mỗi tác phẩm lại có một giá trị riêng, nhưng tổng kết lại nó đều bồi đắp thêm tình yêu thương con người, tình yêu cuộc sống, tinh thần yêu nước cho mỗi học sinh.

Phần văn bản văn học nước ngoài là các tác phẩm xuất sắc của các nhà văn nổi tiếng thế giới, của nền văn học nhân loại như: “Cô bé bán diêm” (Andecxen), “Đánh nhau với cối xay gió” (trích Đôn-ki-hô-tê) – Xecvantec, “Chiếc lá cuối cùng” (Trích) – O.Henri, “Hai cây phong” (trích “Người thầy đầu tiên”) – Ai-ma-tốp. Đó là những câu chuyện được lựa chọn từ những tác phẩm văn học đồ sộ thế giới mang những màu sắc khác nhau của cuộc sống. Qua nhân vật và câu chuyện của nhân vật, mỗi tác phẩm sẽ gửi gắm một thông điệp riêng, đem đến bài học nhân sinh sâu sắc. Học sinh thấu hiểu, cảm thông và biết trân trọng giá trị con người hơn. Từ đó nghe thấy tiếng nói chung của con người trên khắp thế giới về đấu tranh và bảo vệ quyền sống.

Phần văn bản nhật dụng đề cập đến những vấn đề gần gũi, nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay như môi trường, tệ nạn xã hội, dân số. Bao gồm: Thông tin về ngày trái đất năm 2000, Ôn dịch thuốc lá, Bài toán dân số. Các văn bản được đưa vào sách với mục đích nâng cao nhận thức cho học sinh về các vấn đề đang xảy ra xung quanh, định hướng hành động thực tiễn cho các em.

Nội dung tiếp theo là phần Tiếng Việt. Cấu trúc phần này gồm: Cấp độ khái quát của từ ngữ, Trường từ vựng, Từ tượng hình – Từ tượng thanh, Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội, Trợ từ – Thán từ, Tình thái từ, Chương trình địa phương (Phần Tiếng Việt), Nói quá, Nói giảm – Nói tránh, Câu ghép, Dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm, Dấu ngoặc kép, Ôn luyện về dấu câu,… Những bài học nối tiếp từ lớp 7 có vai trò nâng cao khả năng về ngôn từ, ngữ pháp cho học sinh để vận dụng vào viết văn là giao tiếp hàng ngày. Đồng thời giúp các em hiểu thêm sự giàu đẹp của tiếng Việt và bồi đắp thêm tình yêu tiếng nói dân tộc.

Ở phần làm văn, học sinh được rèn luyện, củng cố một số kĩ năng tạo lập văn bản như: xây dựng bố cục, xây dựng đoạn văn, liên kết đoạn văn. Chương trình Tập làm văn 8 nâng cao hơn lớp 7 trên nhiều phương diện. Các phương thức biểu đạt được học trước trở thành tiền đề cho phương thức biểu đạt thuyết minh – kỹ năng quan trọng của phần làm văn lớp 8. Thuyết minh không xuất hiện nhiều trong lĩnh vực văn chương nhưng lại hết sức thông dụng trong các lĩnh vực đời sống. Chính vì thế, nó giúp học sinh hình thành và rèn luyện phương pháp thuyết minh một sự vật, hiện tượng trong cuộc sống theo tri thức khoa học chính xác và khách quan. Bên cạnh đó, phần làm văn còn nâng cao kỹ năng kể chuyện, nghị luận về các tác phẩm văn học. Các em sẽ có khả năng thể hiện tình cảm, cảm xúc tốt hơn qua những câu văn. Từ đó hình thành nền tảng ngôn ngữ và lý luận sắc bén.

Sách Ngữ văn lớp 8 có vai trò, tác dụng lớn trong quá trình học tập môn ngữ văn của học sinh. Sách giúp học sinh tiếp cận với những tác phẩm văn học nổi tiếng được truyền qua nhiều thế hệ để thấy được giá trị của nghệ thuật. Học văn, tình cảm được bồi đắp, tâm hồn bay bổng, thanh thản, nhẹ nhàng hơn làm dịu đi những áp lực căng thẳng của cuộc sống. Đặc biệt, sách có ý nghĩa giáo dục to lớn, rèn luyện cho ta nhiều kiến thức trong việc giao tiếp hàng ngày dù là thể hiện dưới mọi hình thức. Bồi đắp thêm những tình cảm, đức tính tốt đẹp như yêu thương và cảm thông với con người. Từ đó biết trân trọng những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống của mình hơn.

“Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ”. Sách Ngữ văn 8 tập 1 cũng là một ngọn đèn soi sáng trí tuệ chúng ta. Hãy bảo quản, giữ gìn sách khi sử dụng để có được hành trang cho chặng đường tiếp thu, chiếm lĩnh tri thức.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 4

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 3

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 4

Trong cuộc đời của mỗi người, hẳn ai cũng từng biết qua một vài quyển sách, càng bổ ích hơn khi được đọc hoặc nghiên cứu về chúng. Hôm nay, tui xin giới thiệu với các bạn quyển sách Ngữ Văn 8 – Tập một mà tôi đang được học ở trường. Đây là một quyển sách chứa đựng thật nhiều kiến thức về các phần như: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn. Tôi sẽ trình bày đôi nét vế quyển sách này để các bạn biết rõ hơn về nó.

Quyển sách Ngữ Văn 8 – Tập một do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành dưới sự cho phép của Bộ Giáo dục và đào tạo, được tái bản lần thứ năm. Để có được một quyển sách với nội dung hoàn chỉnh phải trải qua nhiều công đoạn rất công phu. Nào là phải chọn lọc rồi biên soạn lại, trình bày bìa và minh họa, chọn size chữ, chọn bản in,…Nhân đây, tôi xin nhắc đến một số người đã góp công trong việc phát hành quyển sách này. Bản quyền thuộc Nhà xuất bản Giáo dục và đào tạo. Vế phần nội dung do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), Nguyễn Hoành Khung (Chủ biên phần Văn), Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt), Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn), Lê A, Diệp Quang Ban, Hồng Dân,… Chịu trách nhiệm xuất bản do chủ tịch HĐQT kiêm tổng Tổng Giám đốc Ngô Trần Ái và phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập Nguyễn Quý Thao. Biên tập lần đầu Kim Chung, Ngọc Khanh, Hiền Trang. Biên tập tái bản Phạm Kim Chung. Trình bày bìa và minh họa là Trần Tiểu Lâm. Nguyễn Thanh Thúy chịu trách nhiệm biên tập kĩ thuật. Sửa bản in do Phòng sửa bản in (NXB Giáo dục). Chế bản do Công ty cổ phần thiết kế và phát hành sách giáo dục. Sách có mã số 2H811T9 và số đăng ký KHXB: 01-2009/CXB/219 – 1718/GD, được in 70 000 cuốn tại Công ty TNHH MTV XSKT & Dịch vụ In Đà Nẵng. In xong nộp lưu chiểu tháng 02 năm 2009.

Chúng ta đã được rèn luyện, củng cố nâng cao một số kĩ năng trong quá trình tạo lập văn bản như: xây dựng bố cục, xây dựng đoạn văn, liên kết đoạn văn. Chương trình Tập làm văn 8 sẽ được nâng cấp trên một vài phương diện. Sự kết hợp phương thức biểu đạt tự sự, nghị luận mà chúng ta đã được học qua với phương thức biểu đạt khác như miêu tả, biểu cảm sẽ tạo nhiều điều kiện để ta đọc – hiểu văn bản làm cơ sở để đi vào nghiên cứu phương thức biểu đạt thuyết minh. Đây là kiểu văn bản lần đầu được dạy trong nhà trường ở Việt Nam, tuy không xuất hiện nhiều trong lĩnh vực văn chương nhưng lại hết sức thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống.

Chúng ta cũng đã được biết qua các tác phẩm văn học hết sức nổi tiếng được thể hiện dưới hình thức truyện hoặc thơ của các nhà văn lỗi lạc trong và ngoài nước. Điển hình là một số tác phẩm văn học nổi tiếng như: Tôi đi học của Thanh Tịnh, Trong lòng mẹ (trích Những ngày thơ ấu) của Nguyên Hồng, Tức nước vỡ bờ (trích Tắt đèn) của Ngô Tất Tố, Lão Hạc của Nam Cao, Cô bé bán diêm (trích) của An-đéc-xen, Đánh nhau với cối xay gió (trích Đôn Ki-hô-tê) của Xéc-van-tét, Chiếc lá cuối cùng (trích) của O Hen-ri, Hai cây phong (trích Người thầy đầu tiên) của Ai-ma-tốp, Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác (trích Ngục Trung Thư) của Phan Bội Châu, Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh,…Tôi xin giới thiệu đôi nét về một tác phẩm văn học Việt Nam mà tôi cho là hay nhất trong suốt quá trình học đó là tác phẩm “Tức nước vỡ bờ” trích Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Với ngòi bút hiện thực, sinh động của ông, đoạn trích đã tố cáo, vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời, đã đẩy họ vào con đường cùng với tình cảnh quá cơ cực khiến họ phải liều mạng chống lại. Và chị Dậu là một hình ảnh tiêu biểu. Truyện còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

Bên cạnh các tác phẩm văn học Việt Nam nổi tiếng còn có những tác phẩm văn học nước ngoài với lời văn hết sức tinh tế và độc đáo. Tiêu biểu như đoạn trích “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen. Truyện kể về một hoàn cảnh vô cùng bất hạnh của một em bé bán diêm. Ngay từ nhỏ em đã phải sống trong sự thiếu vắng tình thương của mẹ cùng với sự lạnh lùng, ghẻ độc của cha. Năm mộng tưởng cao đẹp đã cùng em và bà về nơi Thượng Đế. Qua lời văn của tác giả, ta thấy truyện còn tố cáo xã hội đã bất nhân, lạnh lùng, đối xử tàn tệ với trẻ em của xã hội tư bản và lòng thương cảm sâu sắc của tác giả đối với một em bé bất hạnh mà An-đéc-xen muốn truyền đạt cho chúng ta.

Nhưng chưa hết đâu, ở phần Tiếng Việt chúng ta sẽ được mở mang thêm nhiều kiến thức với những bài học vô cùng bổ ích như: Cấp độ khái quát của từ ngữ, Trường từ vựng, Từ tượng hình – Từ tượng thanh, Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội, Trợ từ – Thán từ, Tình thái từ, Chương trình địa phương (Phần Tiếng Việt), Nói quá, Nói giảm – Nói tránh, Câu ghép, Dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm, Dấu ngoặc kép, Ôn luyện về dấu câu,…Ở bài Cấp độ khái quát của nghĩa từ ngữ giúp ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa, đặc tính của các từ, rèn luyện cho ta cách chọn lọc và sử dụng từ ngữ thật chuẩn xác. Tiếp đến là bài Trường từ vựng, ý nghĩa công dụng của nó gần giống như bai trên nhưng nó chứa đựng một hàm ý sâu xa hơn và đòi hỏi kĩ năng sử dụng các tính chất của trường từ vựng cao hơn. Khi đã thực vững vàng thì ta sẽ được học tiếp bài Từ tượng hình – Từ tượng thanh, giúp ta phân biệt rõ ràng từ nào là chỉ âm thanh, từ nào là chỉ hình ảnh, trao dồi cho ta nhiều vốn liếng về từ ngữ hay rối từ đó có thể thành lập được những câu văn hay để đưa vào bài viết.

Như vậy, qua đó ta cũng đã thấy được vô vàn kiến thức bổ ích cần phải tìm hiểu sâu hơn trong quyển sách Ngữ Văn 8 – tập một này. Nó giúp ta tiếp cận với những tác phẩm văn học nổi tiếng được truyền qua nhiều thế hệ từ đó mới thấy được chân giá trị của nghệ thuật, đối với người học văn, nó còn làm cho tâm hồn ta bay bổng, thanh thản, nhẹ nhàng hơn để giảm bớt đi những áp lực nặng nề của cuộc sống. Hơn nữa, sách còn mang ý nghĩa giáo dục to lớn, tôi luyện cho ta nhiều kiến thức trong việc giao tiếp hàng ngày dù là thể hiện dưới mọi hình thức. “Có đam mê đọc sách mới thấy được những giá trị tiềm tàng của sách”.

Với tôi, sách là người bạn thân thiết, mãi đồng hành cùng tôi trên ghế nhà trường. Và tôi luôn nâng niu, trân trọng từng trang sách, từng bài học, từng lời văn,…vì tôi biết sách luôn kề vai sát cánh bên tôi, bồng bế tôi qua những nẻo đường khúc khuỷu để tiến về đỉnh vinh quang của học vấn. “Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ” Thật vậy, câu nói này đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ và nó vẫn còn mang ý nghĩa tồn tại trong mọi thời đại. Ngọn đèn tri thức chính là sách và ngọn đèn ấy chẳng bao giờ bị dập tắt cho dù nó có đứng trước những thay đổi thất thường của thời tiết.

Ôi ! Quyển sách Ngữ Văn 8 – Tập một chứa đựng biết bao nhiêu là kho tàng tri thức vô giá của nhân loại. Sách như ngọn đèn sáng soi bước đường tôi đi và sách cũng như chiếc chìa khóa vạn năng mở toang các cánh cửa trên con đường học vấn tôi đang lê bước và một sự đóng góp lớn lao trong việc “Trăm năm trồng người”. Đó chính là công sức to lớn của những thầy, cô giáo luôn tận tụy, hết mình vì học sinh, luôn tìm tòi những cách giảng thật hay, thật dễ hiểu để học sinh chúng tôi có thể tiếp thu dễ dàng những kiến thức bổ ích mà thấy, cô đang truyền đạt. Như vậy, sách cũng như những người thầy, người cô lái đò đưa chúng tôi sang sông cập bến của tương lai tươi sáng.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 2

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 3

Từ xưa đến nay, sách luôn là kho tàng lưu trữ kiến thức, là một công cụ học tập hữu ích của con người. Sách cung cấp cho ta đầy đủ tri thức về mọi lĩnh vực trên thế giới, giúp ta thư giãn, giải trí và đôi khi còn làm thay đổi một phần nào đó trong cuộc sống của chính chúng ta. Trong đó cuốn sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập một là một cuốn sách vô cùng bổ ích và không thể thiếu đối với mỗi học sinh Trung học cơ sở.

Cuốn sách nào cũng vậy, trang bìa rất quan trọng bởi nó thể hiện lĩnh vực mà cuốn sách muốn truyền đạt tới người đọc. Như bao cuốn sách khác, sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập một được trình bày rất đẹp và hợp lí. Bìa sách được làm bằng giấy cứng màu hồng nhạt trông rất sáng và đẹp. Ở góc dưới cùng bên phải của bìa là tên và logo của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Ở giữa cuốn sách là một khóm hoa thuỷ tiên đang đua nhau khoe sắc như đang đón chào chúng ta đến với kho tàng kiến thức dành cho học sinh lớp 8.

Phía bên trên là dòng chữ “Ngữ văn” màu xanh dương kết hợp với con số 8 màu trắng được in nổi bật trên nền bìa màu hồng. Kích thước 17 x 24 cm vừa vặn, phù hợp với tầm tay của học sinh. Cuốn sách dày gần hai trăm trang chứa đựng biết bao kiến thức bổ ích. Bìa sau cuốn sách cũng được làm bằng chất liệu giấy cứng màu trắng. Phía trên cùng in hình biểu tượng chất lượng mà sách đạt được. Ở giữa là tên sách giáo khoa của 11 bộ môn. Sau trang bìa, trang đầu tiên là “Lời nói đầu” giới thiệu cho người đọc biết mục đích và nội dung chung mà cuốn sách sẽ mang lại cho học sinh. Giấy in sách màu trắng có độ sáng hài hoà, chữ viết in đậm rõ ràng giúp học sinh nhìn rõ, đảm bảo thị lực cho học sinh. Cuốn sách có tất cả 17 bài, phía trên mỗi bài đều có nội dung kiến thức cần đạt được.

Kiến thức cuốn sách giáo khoa mang lại cho người đọc vô cùng phong phú và đa dạng. Phần truyện gồm nhiều loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi kí giúp ta hiểu được cuộc sống của người nông dân Việt Nam và phẩm chất cao quý của họ dưới xã hội thuộc địa phong kiến. Phần thơ gồm thơ yêu nước đầu thế kỉ XX của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Tuấn Khải,… Các tác phẩm thơ này không chỉ mang ý nghĩa giáo dục về tư cách đạo đức, về lòng yêu nước sâu sắc mà còn cho học sinh thấy được những vẻ đẹp khác nhau của các tác phẩm trữ tình.

Bên cạnh các tác phẩm văn học Việt Nam là một phần văn học nước ngoài như đưa ta đến những chân trời mới lạ: Đan Mạch, Mĩ, Nga, Tây Ban Nha,… Những truyện ngắn tuy nhẹ nhàng nhung toát lên tinh thần nhân đạo cao cả, tình yêu thương những người cùng khổ, đồng thời cho ta hiểu được một phần nào về xã hội của các nước bạn trong thế kỉ XIX, XX. Phần Tiếng Việt rèn cho học sinh cách sử dụng từ ngữ, câu văn, dấu câu sao cho phù hợp với tình huống, hoàn cảnh giao tiếp. Phần Tập làm văn giúp học sinh nâng cao, củng cố một số kiến thức về văn bản, rèn luyện cho học sinh kĩ năng cơ bản về quá trình tạo lập văn bản như xây dựng bố cục, liên kết đoạn văn, các phương pháp để viết một bài văn.

Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập một là một cuốn sách quý giá, là một kho tàng kiến thức không thể thiếu đối với mỗi học sinh Trung học cơ sở chúng ta.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 1

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 2

Sách là thứ không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta. Sách đem đến cho con người kho tri thức vô cùng to lớn, nhũng điều mới mẻ, lí thú, và cả những tiếng cười thoải mái. Còn đối với học sinh chúng ta, những quyển sách giáo khoa là những vật vô cùng gắn bó và thân thuộc; một trong số đó, cuốn sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập một mang đến rất nhiều kiến thức về bộ môn Ngữ văn.

Sách có hình chữ nhật đứng khá dày, khổ 17 x 24 cm nên cầm trên tay rất vừa vặn. Trang bìa làm bằng giấy cứng, bóng, đẹp. Phần trên của sách có dòng chữ: “Ngữ văn 8, tập một”, khổ chữ to, rõ ràng. Góc trái in hình khóm hoa thuỷ tiên vàng đang khoe sắc. Phần dưới cùng ghi lôgô Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Ở bìa bốn quyển Ngữ văn là danh sách 11 quyển sách giáo khoa ở tất cả các môn học. Cuốn sách gần hai trăm trang làm bằng giấy mỏng, màu hơi sậm để không gây ảnh hưởng đến thị lực của học sinh. Các chữ được in rõ ràng, bố cục hợp lí rất vừa mắt. Trang đầu tiên in tên những người biên soạn sách.

Đối với phần văn học nước ngoài, chúng ta biết thêm rất nhiều về những nhà văn nổi tiếng như: O Hen-ri (Chiếc lá cuối cùng), An-đéc-xen (Cô bé bán diêm), Ai-ma-tốp (Người thầy đầu tiên),… Qua những tác phẩm đã học ấy, chúng ta thêm hiểu về cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng giàu tình cảm của những hoạ sĩ nghèo nước Mĩ vào thế kỉ XX; hay cuộc sống bấp bênh, nghèo khổ của những trẻ em phương Tây mồ côi, phải tự đi kiếm sống trước sự ghẻ lạnh của xã hội vào cuối thế kỉ XIX. Trong phần Tiếng Việt có khá nhiều những điều mới mẻ như : trường từ vựng, các biện pháp nói giảm nói tránh, biện pháp tu từ nói quá,…

Cuốn sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập một thật là hữu ích, đem đến rất nhiều điều bổ ích, lí thú và cả những giây phút sảng khoái vậy nên việc bảo quản sách là vô cùng quan trọng. Chúng ta nên bọc, dán nhãn cẩn thận để tránh bị ướt hay bẩn sách, giữ gìn cẩn thận không để quăn mép.

Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 số 1

Đăng bởi: Bình Hoàng

Từ khoá: 10 Bài văn thuyết minh về quyển sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8 hay nhất

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Cặp Sách 6 Dàn Ý &Amp; 18 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8 trên website Ltzm.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!